Tuesday, July 19, 2011

Phát hiện lại Việt Nhân Ca (越人歌) - Đỗ Thành

 Việt nhân ca quá nổi tiếng. Sau khi được đưa vào phim và hát thì nổi lên phong trào tìm hiểu Việt nhân ca trong dân gian chứ không còn là chuyện của các chuyên gia nghiên cứu văn hóa. Nổi tiếng vì có thể nói đó là bài thơ tình đầu tiên, bài dân ca xuất hiện sớm nhất được ghi nhận trọn vẹn, cách nay khoảng 2800 năm…

Tóm tắt về bối cảnh ra đời của Việt nhân ca: Lưu Hướng (刘向) là cháu bốn đời của Lưu Giao  (刘交). Lưu Giao là em của Lưu Bang (刘邦), Cao tổ của nhà Hán. Lưu Hướng là tác giả của sách Thuyết uyển (说苑). Sách có chương kể chuyện  “Tương Thành Quân thủy phong chi nhật” (襄成君始封之日). Tương Thành Quân là Sở Tương Vương (楚襄王) tên hiệu là Hùng Hoành (熊橫). Trong câu chuyện có nhắc đến Ngạc Quân Tử Tích  (鄂君子皙) là vua Sở Hùng Ngạc (楚熊咢) dùng thuyền dạo mát ngoạn cảnh thì có người chèo thuyền hát bài dân ca Việt. Ngạc Quân Tử Tích nhờ người ghi lại và phiên dịch ra tiếng "Sở" là bài "Việt nhân ca".
Nguyên văn đoạn đó như sau:
"襄成君始封之日,衣翠衣,带玉剑,履缟舄(舄:xi4,古代一种双层底加有木垫的鞋;缟舄:白色细生绢做的鞋),立于游水之上,大夫拥钟锤(钟锤:敲击乐鼓的锤子),县令执桴(桴:鼓槌)号令,呼:谁能渡王者于是也?楚大夫庄辛,过而说之,遂造托(造托:上前求见)而拜谒,起立曰:臣愿把君之手,其可乎?襄成君忿然作色而不言。庄辛迁延(迁延:退却貌)沓手(沓:盥之误字,盥手即洗手)而称曰:君独不闻夫鄂君子皙之泛舟于新波之中也?乘青翰之舟(青翰:舟名,刻成鸟形的黑色的船),极man2,上艹下两;芘:bi4芘:不详为何物,疑为船上帐幔之类),张翠盖而检 (检:插上)犀尾,班(班,同丽袿(袿:gui1,衣服后襟,指上衣)(衽:ren4,下裳),会钟鼓之音,毕榜枻(榜:船;枻,yi4,桨。榜枻:这里指代船工)越人拥楫而歌,歌辞曰:滥兮抃草滥予,昌枑泽予昌州州,饣甚州州焉乎秦胥胥,缦予乎昭,澶秦踰渗,惿随河湖鄂君子皙曰:吾不知越歌,子试为我楚说之。于是乃召越译,乃楚说之曰:今夕何夕兮,搴中洲流。今日何日兮,得与王子同舟。蒙羞被好兮,不訾诟耻。心几顽而不绝兮,知得王子。山有木兮木有枝,心说君兮君不知 于是鄂君子皙乃揄修袂,行而拥之,举绣被而覆之。鄂君子皙,亲楚王母弟也。官为令尹,爵为执圭,一榜枻越人犹得交欢尽意焉。今君何以踰于鄂君子皙,臣何以独不若榜枻之人,愿把君之手,其不可何也襄成君乃奉手而进之,曰:吾少之时,亦尝以色称于长者矣。未尝过僇(僇:lu4,羞辱)如此之卒也。自今以后,愿以壮少之礼 命。
Dịch nghĩa:

“Ngày đầu tiên Tương Thành Quân được phong quan tước, mặc áo đẹp, đeo kiếm ngọc, mang cao guốc, đứng phía trên dòng nước, đại phu gõ nhạc, đánh trống. Lệnh rằng: "Ai có thể đưa ta lên đò?" Sở đại phu Trang Tân bước lên phía trước bái kiến, đứng thẳng nói rằng: "Thần nguyện nắm tay của quân vương, có được không ?" Tương Thành Vương phẫn nộ, mặt biến sắc và im lặng. Trang Tân mất mặt, phủi tay nói rằng: " Quân vương không nghe qua chuyện Ngạc Quân Tử Tích dạo thuyền trên làn sóng mới sao? Trên thuyền Thanh Hàn, cắm cờ xí, khoác áo choàng đẹp. Trong tiếng chuông trống, người chèo thuyền là người Việt đã hát. Lời hát là "Lạm hề biện thảo biện dư, xương hoàn trạch dư xương châu châu, Thực thẩm châu châu yên hô tần tư tư, mạn dư hô chiêu, thẳn tần du sâm, đề tùy hà hồ ." Ngạc Quân Tử nói: " Ta không hiểu Việt ca, thử cho ta hiểu bằng tiếng Sở." Thế là cho người phiên dịch, bằng tiếng Sở nghĩa là: "Kim tịch hà tịch hề, khiên trung châu lưu, kim nhật hà nhật hề, đắc dĩ vương tử đồng Chu. mông tu bị hảo hề, bất hiềm cấu sĩ. tâm kỷ phiền nhi bất tuyệt hề, tri đắc vương tử. Sơn hửu mục hề mục hửu chi, tâm thuyết quân hề quân bất tri.” Nghe xong, Ngạc Quân Tử Tích xăn tay áo, đến ôm lấy, dùng mền thêu mà đắp lên. Ngạc Quân Tử Tích là em cùng mẹ với Sở vương, làm quan Lịnh-Doãn, tước vị cao sang, mà còn có thể cùng vui  tận hết ý với người chèo thuyền Việt. Nay  sao quân vương lại do dự hơn Ngạc Quân Tử Tích, thần tại sao không bằng  người chèo thuyền, muốn nắm tay quân vương, tại sao lại không được ?" Tương Thành Quân đưa tay ra bước tới, nói: "Ta từ nhỏ đã được người lớn khen đàng hoàng, chưa từng bất ngờ gập qua cảnh nầy. Từ nay về sau xin nghe lời chỉ dạy của tiên sinh."

Chính nhờ đoạn văn này mà Bài ca của người Việt còn tới ngày nay.

Từ văn bản Hán ngữ:
今夕何夕兮,搴舟中流。    
Kim tịch hà tịch hềkhiên chu trung lưu.
今日何日兮,得与王子同舟。
Kim nhật hà nhật hềđắc dữ vương tử đồng chu!
蒙羞被好兮,不訾诟耻。        
Mông tu bị hảo hềbất hiềm cấu sỉ.
心几烦而不绝兮,得知王子。        
Tâm kỉ phiền nhi bất tuyệt hềđắc tri vương tử.
山有木兮木有枝 ,心悦君兮君不知!                    
Sơn hữu mộc hề mộc hữu chi,tâm thuyết quân hề quân bất tri!

Và đây là bản dịch có thể được coi là chuẩn:


Việt nhân ca

Đêm nay đêm nào chừ, chèo thuyền giữa sông
Ngày này ngày nào chừ, cùng vương tử xuôi dòng.
Thẹn được chàng mến yêu chừ, nào chê phận thiếp long đong
Lòng rối ren mà chẳng dứt chừ, được gặp chàng vương tông
Non có cây chừ, cây có cành chừ; lòng yêu chàng chừ, chàng biết không?             
(Bản dịch Việt ngữ trên Diễn Đàn của Viện Việt Học)

Hiện giờ Việt nhân ca được biết như là bài dân ca của dân tộc "Choang", được ghi lại bằng ký âm bởi người Sở thời Xuân-Thu.* Một số ý kiến cho rằng lịnh doãn nước Sở là Ngạc Quân Tử Tích sau khi nghe bài hát của người Việt rồi nhờ người phiên dịch ra tiếng Sở. Sở quá rộng lớn nên Bắc Sở thường tự xưng là Kinh Sở và Nam Sở tự xưng là Tương Sở hay Tượng Sở. Trong lịch sử xưa có khi Nam Sở tách ra độc lập là nước Dương Việt. Nếu ngược thời Xuân thu đi về xa nữa, thì tận xa xưa có “lịnh doãn" của nước Sở là Tử Văn vào triều đình nhà Chu nói chuyện bằng tiếng Sở mà nhà Chu xưng là Hoa lại không ai hiểu... Điều nầy được ghi nhận trong Sử ký. Xin quí vị xét kỹ yếu tố câu chuyện nầy mà đừng lầm rằng tiếng Sở là tiếng Hoa. Ngay cả "lịnh-doãn" nước Sở nghĩa là gì thì người Hoa cũng không biết, nên chỉ  ghi chú: quan "lịnh-doãn" là chức quan tương đương với "tể tướng" hay gọi là "thừa tướng". Thực ra lịnh-doãn (令尹) là từ đa âm cổ: quan lịnh-doãn hay quan loãn à quan loan à quan lang chỉ có trong tiếng Việt và người Việt mới hiểu. Quan chức người Việt thời Hùng Vương được gọi là quan lang à loan, khi ký âm bằng chữ vuông thì biến thành lịnh - doãn  (令尹). Thời Xuân thu vẫn dùng ngôn ngữ Việt làm tiếng phổ thông giữa các quốc gia nhỏ ở Trung Nguyên và gọi là Nhã ngữ. Nhã ngữ là Việt ngữ mà ngày nay cũng bị gọi là Hoa ngữ, đã đơn âm hóa nên nhiều người lầm tưởng "Việt" "Hoa" là hai ngôn ngữ khác nhau. Ví dụ "Trữ-la" thôn thì thực ra là "Tử la" thôn có nghĩa là “thôn Tả". "Trả" “tả” hay "trái" chính là "Tó"  (Triều Châu), “Chỏ" (Quảng Đông), "Chò" (Bắc Kinh) dù chung một gốc mà sau khi biến âm thì vùng nầy lại không hiểu ngôn ngữ vùng kia.
Nay tôi xin thử phục nguyên bài ca Việt trình bạn đọc.
Ký âm tiếng Việt của bài ca được ghi lại là:
   滥兮抃草滥予                              
Lạm hề biện thảo lạm dư
   
昌枑泽予昌州州                   
Xương hằng trạch dư xương châu châu
 
饣甚州焉乎秦胥胥          
Thực thầm châu yên hồ tần tư tư
  
缦予乎昭                     
Mạn dư hồ chiêu
澶秦逾惿随河湖 
Thìn  tần du sâm, đề tùy hà hồ
So sánh hai bản văn ta thấy khác nhau rõ rệt. Bản dịch có 54 chữ, trong khi nguyên bản chỉ có 33 chữ. Ở bản dịch, câu thứ 3 bị thiếu chữ "", đó chính là chữ -Thực. Trong  khi đó bản dịch bị thêm câu cuối, chỉ mang tính đưa đẩy vô nghĩa “non có cây, cây có cành.” Có vấn đề cần lưu ý là sự hình thành của hai bản văn trên: Bài ca bằng tiếng Việt của người Việt. Người Sở nghe không hiểu nên yêu cầu được dịch sang tiếng Sở. Nhưng rồi cả bản tiếng Việt cả bản tiếng Sở được ký âm bằng chữ vuông Hán ngữ. Nếu dịch là diệc thì đây cũng là ví dụ tiêu biểu. Tiếng Việt cổ của 2800 năm trước là ngôn ngữ đa âm, “bị” chuyển thành Hán tự đơn âm cách nay 2000 năm là sự mất. Mất chữ dẫn tới mất nghĩa… Qua quá trình chuyển ngữ như thế, tất cả đều thay đổi. Nhìn khách quan, đó là hai bản văn khác nhau hầu như hoàn toàn về văn tự. Có lẽ chỉ chung nhau ở phong cảnh sông nước, nỗi quyến luyến của người chèo thuyền và chàng vương tử, vậy thôi! Hơn hai nghìn năm nay, giai thoại vẫn nằm trong sách. Bao thế hệ đã đọc và ngợi ca đều bằng lòng với bản dịch mà chưa ai nghiên cứu nguyên văn của bài ca tức là bản  tiếng Việt! Phải chăng đó là thứ ngôn ngữ bị mai một mà bao tháng năm do không hiểu được nên lớp lớp tài tử văn nhân bằng lòng với cái bóng, cái hình? Rất khó xác định giữa nguyên bản và bản dịch, cái nào hay hơn. Có thể do chất trữ tình của bản dịch cụ thể hơn cộng với nhịp điệu đưa đẩy của bài ca gây ấn tượng cho người đọc khiến hàng nghìn năm người đọc bị dẫn dụ sang bài ca khác mà không phải bài ca của người Việt? Chính vì vậy, việc khảo cứu, phục nguyên văn bản gốc của bài ca Việt càng trở nên ý nghĩa.
Phiên dịch ra Hán Việt cho một bài dùng chữ tượng hình cổ để "phiên âm" tiếng Việt thì sẽ rất là khó vì có chữ không còn được dùng nữa, nên không có trong từ điển. Mà dù cho có tra tự điển thì chưa chắc đúng bởi vì giọng đọc ở các địa phương khác nhau. Thêm nữa, cách nhau đến ngàn năm thì tiếng nói và cách viết của một số chữ có thể thay đổi và lại biến âm theo từng miền ngôn ngữ v v... Bản ký âm nầy cho đến nay vẫn bị cho là phiên âm để ghi lại tiếng "Choang" tức là tiếng "Thái" của Tráng tộc.
 Xin trình bày lại và xếp theo ý tôi:

       
                         
                  
                                
...   湖。
  
Xin sắp xếp lại lần nữa, vì rất quang trọng, cho đúng 6-8: (chú ý hai chữ có gạch nối là một chữ đa âm)

                       
Lạm hề biện-thảo lạm dư                    
 -           
Xương hoàng trạch-dư xương châu châu thực      
     -                                    
Thẩm châu yên hô-tần tư tư                   
      -             -      
Mạn dư hô-chiêu thìn tần du sâm đề-tùy.   
 ...   湖。     
Hà Hồ.

Để dịch bài này từ tiếng Việt xưa ra tiếng Việt nay xin giải thích những ký âm của Việt nhân ca: 
: "Lạm" là "Lam" hay "nam" tức là "Năm", "L" và "N" thường là biến âm, ngày nay màu "Lam" tiếng Triều Châu là "Nam". Rất nhiều nơi ở Quảng, Triều, Việt thường lẫn lộn "L" và "N".                  
: Hề... hầy, nầy, nè, đây... nhiều biến âm.
抃草: Biện-thảo là từ đa âm của "bảo".     
:  "Dư" còn có âm "ia" (Triều Châu, Bắc kinh). Năm "dư" có thể như ngày nay là "năm kia", "năm xưa."   
:  ký âm "xương" là  "thương". Ngày nay tiếng Quảng Đông-thuần Việt là "Sẹc", Triều Châu-thuần Mân Việt là "Siaiê".                   
: "Hằng" hay "Hoàng".                     
泽予: "Trạch-Dư" hay "Trạch-Dử" là "Trử” hay "Tử",  
: Thực, tiếng Quảng Đông à sực, Bắc kinh à Sữa: phát âm như là "Xưa".  
 : Thẩm hay Thậm là Sẩm, sửm, sơm tiếng tiếng Quảng Đông, và Bắc kinh "Sum" phát âm như "Sớm". 
: Châu phát âm Mân Việt -Triều Châu thì đọc là "Chiêu", "Chiệu" như "Chiều".   
: (zen) phát âm tiếng Bắc Kinh như em.
乎秦: "Hô-tần" đa âm, là "Hận" đơn âm.
乎昭: "Hô-chiêu" đa âm là "Hiểu" đơn âm.                                                                 
: "Thẳn" hay "Đặng" hay "được". Nếu tra tự điển và phiên dịch là "Thìn" hay "chiền" là không đúng! Bên trái là bộ "Thủy" và bên phải là chữ "Đàn", đọc là "Thẳn" hay "đặng" và nghĩa là "nước xối... thẳng, thông, đặng". Tiếng Quảng Đông: "Thànn", Tiếng Triều Châu: "thànn" hay "thạnn".
胥胥: "tư tư" là Tương Tư.  
  : Tần Du, là ký âm "tình duyên" hay "tình yêu",
là Tsình của tiếng Triều Châu ngày nay, , du, Duyè (Quảng đông), Dua (Triều Châu).   
: "Sâm" là Sâu, tiếng Quảng Đông ngày nay "sâu" vẫn là "Sâm".      
惿随: "Đề-Tuỳ" đa âm là "đùy" đơn âm, là "đầy" 
- Hà: hớ                                                           
- Hồ: hò

Như vậy, nghĩa Việt của bài ca như sau:

Năm nầy bảo năm xưa                      
Thương Hoàng tử thương chiều chiều xưa            
Sớm chiều em hận tương tư                           
Mà ai hiểu đặng tình yêu sâu đầy.   
....Hò Hớ.

Theo khảo cứu của tôi thì Việt nhân ca là thơ lục bát của tiếng Việt, phù hợp với câu hò của dân ca Việt. Nếu thể hiện bài ca bằng thể lục bát ngày nay thì sẽ là:
Hò... ... hớ...        
Năm nầy bảo với năm xưa 
Thương chàng hoàng tử thương chiều chiều xưa    
Sớm chiều em hận tương tư                  
Mà ai hiểu đặng tình yêu sâu đầy.
Việc khảo cứu và giải mã bí mật của Việt nhân ca, đối với tôi rất là dễ bởi vì tôi biết chữ tượng hình người Hoa đang dùng vốn là chữ Việt. Khi nghiên cứu cổ sử, tôi thường đọc theo nhiều phương ngữ khác nhau là Bắc Kinh, Quảng Đông, Triều Châu, Hán Việt. Vì thế có thể nói, nhìn vào Việt nhân ca là thấy được bài thơ Việt liền! Thích thú với chi tiết 2800 năm về trước, tiếng Việt đã dùng "biện- thảo" là "bảo" , "nầy" kia, "nầy" xưa, "thương chiều chiều xưa", "em hận tương tư" v v... Nhưng có điều tôi chưa biết "Hò...hớ" là nghĩa gì và cũng chưa bao giờ nghĩ đến sẽ tìm hiểu "Hò......Hớ" là gì! Vậy mà Việt nhân ca bản gốc đã làm tôi kinh ngạc và "ngộ" ra rằng "Hò...hớ" là dân ca của người Việt khi gắn bó với sông hồ, với ghe, thuyền: Hò...Hớ nghĩa là "Hà " ..."Hồ "
Sacramento, 12. 09


Ngày đăng: 24.12.2009

Chuyện Nguồn Gốc Kinh Dịch Người Việt Nam Nên Đối Xử Công Bằng Với Tổ Tiên - Nguyễn Thiếu Dũng


Người Trung Hoa đã có 2000 năm để nói Kinh Dịch là của họ,có hơn vài ngàn tác giả với hơn mấy ngàn đầu sách luôn luôn khẳng định điều này khiến nó đã thành một sự thật hiển nhiên khó ai cãi lại được. Nhưng ngày nay đã có những chứng cứ cho chúng ta thấy rằng nguồn gốc Kinh Dịch không thể tìm thấy ở Trung Hoa, mà Việt Nam mới chính là nơi khai sinh Kinh Dịch, mặc dầu những người bày tỏ quan điểm này chỉ đếm được trên đầu ngón tay, quả là "mãnh hổ nan địch quần hồ" nhưng chân lý không phải là dựa vào số đông.

Một người làm khoa học chân chính chỉ nên đưa ý kiến phản bác sau khi đã đọc kỹ quan điểm đối lập, cân nhắc chính xác những bằng chứng họ đề ra xem chỗ nào mình đồng ý, chỗ nào không đồng ý, rồi chính mình phải trưng cho được những chứng cứ ngược lại để làm sáng tỏ vấn đề, không nên nói chung chung, nói theo cảm tình. Cho rằng Kinh Dịch là của Trung Quốc hay là của Việt nam là quyền của mỗi người, nhưng muốn bảo vệ niềm tin này phải dựa vào chứng lý.

Người Trung Hoa nói về nguồn gốc Kinh Dịch dựa trên những chứng lý nào?

1. Trước hết họ cho Phục Hy nhìn những đồ hình trên con long mã vẽ nên bát quái. Đây là sự bịa đặt chỉ hợp với những người mê tín, ưa sự huyền hoặc, thế mà cũng được vô số người tin như thật. Nhưng Phục Hy không phải là thủy tổ chính thống của người Hoa hạ, Phục Hy là tổ của một tộc trong đại chủng Bách Việt phía nam Trung Quốc, người Hoa mượn làm tổ của mình, Tư Mã Thiên không đồng ý nên đặt Hoàng Đế ở đầu Sử Ký, vậy nếu Phục Hy có làm ra Bát quái cũng không thể nói là của Trung nguyên. Thừa nhận Phục Hy chế ra Kinh Dịch là người Hoa đã nhận Kinh Dịch là của dân Bách Việt, vậy sao cứ nói mãi Kinh Dịch của Trung Hoa và gọi đó là niềm tin chính thống.

Hoàng Tông Viêm (1616-1686) người ở cuối đời nhà Minh, đầu đời nhà Thanh đã cực lực phủ nhận vai trò của Phục Hy trong Kinh Dịch, sao người Việt
Nam vẫn cứ tin!

2. Sau Phục Hy người Hoa cho là Văn Vương khi bị Trụ Vương cầm tù ở Dữu Lý đã nâng cấp 8 quẻ thành 64 quẻ và viết quái từ, hào từ Kinh Dịch.

Người bịa ra thuyết này là Tư Mã Thiên, sử gia hàng đầu và uy tín của Trung Quốc.

Chính vì Tư Mã Thiên có uy tín nên lời nói của ông rất có trọng lượng và người ta đã theo đó mà tin không cần kiểm chứng.

Từ Văn Vương đến Tư Mã Thiên cách nhau hơn nghìn năm,trung gian có Khổng Tử cách mỗi ông chừng 500 năm. Khổng Tử rất tôn sùng Văn Vương từng ca tụng nhà
Chu: "Ngô tùng Chu" (ta theo nhà Chu), thế mà Khổng Tử chưa bao giờ nói Văn Vương soạn Kinh Dịch, làm sao Tư Mã Thiên lấy chứng cứ đâu mà nói Văn Vương diễn Dịch nếu không bịa đặt. Ở đầu quyển Sử Ký,lương tri Tư Mã Thiên còn ray rứt nên ngần ngại chỉ đưa ra giả thuyết "có lẽ Văn Vương diễn Dịch", nhưng gần cuối sách thì lại xác định hẵn là Văn Vương diễn Dịch, và nhiều người hùa theo đó mà tin. (Xin xem Khổng Tử học Dịch hay học Diệc-Anviettoancau.net, Kinh Diệc Văn lang-Dunglac.net).

Từ Tư Mã Thiên về trước trong sách vở thời tiên Tần chưa ai tìm thấy một lời ghi nào nói Văn Vương soạn Dịch, thuyết này chỉ có sau Văn Vương một nghìn năm làm sao tin được.

Kinh Thi là sách đại tụng Văn Vương, kể rất nhiều công tích của Văn Vương nhưng không hề đá động đến kinh Dịch, các con Văn Vương như Võ Vương, Chu Công dùng bói toán để cúng lễ Văn Vương nhưng chưa bao giờ nói Văn Vương bói Dịch chứ đừng nói đến chuyện Văn Vương soạn Dịch.

Bản thân Văn Vương là nhà chính trị, nhà quân sự không phải là nhà triết học, Văn Vương là người Hoa Bắc, nhưng Kinh Dịch có nhiều phương ngữ Hoa Nam không thể kết luận Văn Vương soạn Kinh Dịch.

Chính nhóm Ngô Bá Côn đã xác định điều này: "từ thời cận đại đến nay, cách nhìn nhận này đã bị các học giả phủ nhận" (Dịch học, nxb Văn Hóa –Thông Tin, HN 2003, tr.99)

Sách Tả Truyện dẫn nhiều câu chuyện bói Dịch nhưng không hề nói Văn Vương soạn Dịch.

Các nhà Dịch học Trung Quốc đầu thế kỷ XX đã có người muốn dứt bỏ Văn Vương khỏi vương quốc Kinh Dịch, nhưng có một số người nhiễu sự ưa chuyện huyễn hoặc cứ cố níu kéo Văn Vương, nhất là một số Dịch giả người Việt, cứ khư khư ôm chân Văn Vương chẳng rời một bước, tặng không cho ông cái ngai ngất ngưỡng không công mà hưởng.

3. Sau khi loại bỏ Phục Hy và Văn Vương, một số nhà Dịch học Trung Quốc lại cho rằng Kinh Dịch có nguồn gốc từ các nhà Vu Hịch là các quan coi việc bói toán (Cố Hiệt Cương, Lý Kính Trì), Kinh Dịch có các từ phán đoán giống các từ bói toán: cát, hung, hối lận, cữu, vô cữu, nhiều lời Hào trùng hợp với lời bói, nhưng quan điểm này không mấy thuyết phục vì hai cơ cấu Dịch và bói khác nhau, bốc từ là những câu hỏi sẵn đưa ra để hỏi về một vấn đề mà người hỏi thắc mắc, câu trả lời là nhận hoặc phủ nhận, có hay không, còn hào từ phải tùy thuộc vị trí của hào, bản chất của hào, thời của quẻ.

4. Phát hiện mới nhất là quan điểm của Trương Chính Lương khi cho rằng nguồn gốc của quẻ Dịch đến từ quẻ số khắc trên Giáp cốt văn và Kim văn. Nhóm Chu Bá Côn cũng đã có ý kến về vấn đề này "Song dùng các chữ số trong phép bói cỏ như 1,5,6,7,8 v.v… không đủ chứng cứ để chứng minh tại sao trong kinh Dịch lại chỉ có 8 kinh quái và 64 biệt quái" (Dịch học,tr 63).

Sau cùng nhóm Chu Bá Côn kết luận: "Tóm lại, đối với việc tìm hiểu nguồn gốc của quái, hào tượng tuy đã có một số ý kiến có ảnh hưởng nhất định trong mấy năm gần đây, nhưng những điều được đề cập tới đều không ngoài hai loại tượng và số, vẫn chưa thể nói là đã có một đáp án được gọi là công nhận. Có lẽ trong tương lai gần, theo đà phát hiện tư liệu ngày càng nhiều, chúng ta sẽ có được một đáp án xác đáng" (Dịch Học, tr 63). Còn Vương Ngọc Đức thì bi quan hơn: "Cuộc tranh luận kéo dài hai ngàn năm vẫn không có câu giải đáp chính xác. Nếu vẫn theo phương thức tư duy của các học giả thời xưa, thì hai ngàn năm nữa vẫn chưa làm rõ được vấn đề."

(Bí ẩn của Bát quái -nxb Văn Hóa –Thông Tin, HN 1996, tr 27).

Như vậy, đối với vấn nạn nguồn gốc Kinh Dịch, các học giả Trung Quốc đành chịu "bó tay" không truy vấn được. Vậy thì người Việt Nam hà cớ gì cứ đi theo họ để xác nhận một điều họ đã phủ nhận, cứ trân trọng mãi cái họ đã ném đi.

Vậy để xác định Kinh Dịch có nguôn gốc từ Việt
Nam chúng ta có những chứng cớ gì?

Năm 1970 Giáo Sư Kim Định đã dõng dạc tuyên bố "Kinh Dịch là của Việt Nam" trong tác phẩm "Dịch Kinh linh thể", tiếp sau đã có nhiều người mạnh dạn đề xuất những chứng cứ như Nguyễn Xuân Quang, Nguyễn Vũ Tuấn Anh , Trần Quang Bình , Hà Văn Thùy, Nguyễn Quang Nhật, Nguyễn Việt Nho, Trúc Lâm…

Riêng cá nhân tôi từ năm 1999 đến nay tôi đã trình với công luận những chứng cứ khả dĩ chứng minh được Kinh Dịch là di sản của tổ tiên Việt Nam qua mấy điểm sau:

1. Căn cứ vào những hoa văn trên đồ gốm Phùng Nguyên và đồ đồng Đông Sơn thì Việt Nam đã ghi khắc những quẻ Dịch trước Trung Quốc và sớm hơn chứng liệu của Trung Quốc (xin xem Phát hiện Kinh Dịch thời đại Hùng Vương-Thanhnienonline)

2. Chứng liệu của Việt
Nam trực tiếp từ tượng quẻ không phải qua suy luận từ số đến tượng như Trung Quốc. Có đầy đủ 8 quẻ đơn và một số quẻ kép trên đồ đồng Đông Sơn. Những quẻ này có thể đọc thành văn bản phản ánh tư tưởng quốc gia Văn Lang (Sứ giả Văn lang-Anviettoancau.net)

3. Quẻ Dịch trên đồ Phùng Nguyên và Đông Sơn chứng tỏ hào dương vạch liền và hào âm vạch đứt của Trung Quốc là biến thể của Hào dương vạch liền và hào âm vạch chấm chấm của Việt nam, Trung Quốc đã nối những chấm âm lại thành vạch đứt để vạch cho nhanh (cải biên) (Chiếc gậy thần-dạng thức nguyên thủy của hào âm hào dương-Thanhnienonline).

4. Các từ Dịch/Diệc, Hào, Càn, Khôn, Cấn, Chấn, Khảm, Ly, Tốn, Đoài chỉ là từ ký âm tiếng Việt (Bàn về tên gọi tám quẻ cơ bản của Kinh Dịch-Dunglac.net)

5. Quan trọng nhất theo tiêu chuẩn tam tài Trung Quốc chỉ sử dụng Tiên Thiên đồ, Hậu Thiên Đồ mà không có Trung Thiên Đồ, một đồ cốt yếu đã được tổ tiên Việt Nam sử dụng để viết quái, hào từ Kinh Dịch cũng như phân bố vị trí các quẻ. Đồ này được tổ tiên Việt nam dấu trong truyền thuyết, trên trống đồng nên có thể khẳng định Trung Quốc không thể nào là người khai sinh kinh Dịch (Trung Quốc đã công bố hơn 4000 Dịch đồ nhưng không có đồ nào phù hợp với Trung Thiên Đồ) (Kinh Dịch di sản sáng tạo của Việt Nam-Thanhnienonline)

6. Truyền thuyết Việt Nam một phần là những câu chuyện liên hệ với Kinh Dịch, như chuyện con Rồng cháu Tiên là chuyện của Trung Thiên Đồ, chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh là chuyện kể lại từ những lời hào quẻ Mông, người Trung Hoa chỉ cần thay đổi bộ thủy trong hai chữ "chất cốc" thành bộ mộc là đổi câu chuyện nói về lũ lụt thành chuyện dạy trẻ mông muội là xóa được gốc tích của Kinh. Truyền thuyết được lưu giữ chính là để bảo tồn Kinh Dịch. (Các bài trên Anviettoancau.net- cùng tác giả)

Trong một bài báo ngắn chúng tôi không thể trình bày hết mọi chứng cứ nhưng thiết tưởng bấy nhiêu đó cũng đủ để hy vọng các bậc thức giả Việt Nam nên xét lại vấn đề, cân nhắc phân minh trả lại sự công bằng cho Tổ Tiên, thái độ "mackeno" của quí vị chỉ làm tăng thêm nỗi đắng cay chua xót của liệt tổ ở chốn u linh. Xin hãy chung tay làm sáng tỏ huyền án này.
"Hởi ai có thấu lòng tiên tổ!

Xin giải oan cho "Giọt máu Rồng"

Bị chú:

Bài này tôi viết để kỷ niệm 10 năm công bố chứng cứ chứng minh "Kinh Dịch là di sản sáng tạo của Việt nam", xin trân trọng cám ơn các cơ quan truyền thông và quý độc giả đã hưởng ứng truyền đạt thông tin này (Nguyễn Thiếu Dũng).

(nguồn: anviettoancau.net)

Lần Thứ 3 Thưa Chuyện Với Ông Tạ Chí Đại Trường - Hà Văn Thùy




Lời thưa,
Trên hai số tạp chí Xưa&Nay 377 và 378, đăng hai bài viết của tác giả Tạ Chí Đại Trường phê bình học giả Kim Định cùng những người ủng hộ ông. Tôi có lời thưa lại, gửi tới Xưa&Nay nhưng không được in. Vậy xin nhờ … đăng giúp để rộng đường dư luận về hiện tượng lớn trong văn hóa Việt. Xin chân thành cảm ơn!
Hà Văn Thùy


Từng thích thú khi đọc cuốn Sử thời nội chiến của Tạ tiên sinh. Nhưng đọc nhiều bài của ông gần đây trên mạng, tôi cảm thấy buồn về con người mình từng quý trọng. Nơi những bài viết đó, xen với một số ý kiến nghe được lại là những lời xỏ xiên cạnh khóe không xứng với phẩm giá sử gia. Chính vì vậy khi thấy giọng khinh bạc của ông trong “Sử Việt đọc vài quyển” trên BBCOnline ngày 11.5.2005, với những lời mai mỉa sâu cay Giáo sư Kim Định, tôi buộc phải thưa chuyện với ông bằng bài Trao đổi lại với ông Tạ Chí Đại Trường (18/9/2007). Nhưng rồi chỉ hơn năm sau, khi đọc bài Về “huyền sử gia” Kim Định và các chi, bàng phái “huyền sử học” Việt Nam, (1) tôi lại phải viết bài thứ hai, Thưa chuyện với sử gia Tạ Chí Đại Trường. (2) Nay, trên hai số liền của tạp chí Xưa&Nay, lại gặp những ý tưởng cũ rích nhàm chán của ông dưới nhan đề Về "huyền sử gia" Kim Định "huyền sử học" Việt Nam. (377) và Ảnh hưởng của Kim Định đối với các học giả trước kia và hiện nay (378), tôi không thể không lên tiếng. Không thể bởi lẽ lần đầu tiên, tư tưởng của Kim Định được đưa ra mổ xẻ (chính xác là vùi dập) trên một tạp chí chính thức của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. Bất quá tam, người xưa nói. Thưa chuyện với ông lần thứ ba chính là tôi muốn nói với độc giả trong nước vì rất nhiều người chưa hiểu về Kim Định. Nếu bài viết này được đăng thì đây là cơ hội vàng để lần đầu tiên, sau 36 năm đất nước thu về một mối, tiếng nói bảo vệ phát kiến lớn nhất về văn hóa dân tộc Việt được công khai cất lên.
*
Như vậy là sau sáu năm, từ bài giới thiệu “Sử Việt đọc vài quyển” trên BBCOnline, cả giọng điệu lẫn chứng cứ phản bác Giáo sư Kim Định của ông Tạ Chí Đại Trường đều không mới, vẫn là giọng của người ngồi lê đôi mách đầy cảm tính, không hề có chuẩn mực khoa học tối thiểu. Nhưng xuyên qua mớ lời lẽ rông dài rối rắm đó, tôi thấy ông phê phán Kim Định trên hai mặt: phương pháp luận và nội dung học thuyết Việt nho.
Xin hầu chuyện ông về cả hai phương diện này.
I. Về phương pháp luận của Kim Định
Bằng giọng diễu cợt: "huyền sử gia" Kim Định "huyền sử học"Việt Nam, ông Tạ Chí Đại Trường ám chỉ phương pháp luận giải mã huyền thoại của học giả Kim Định. Nhưng xin thưa, phương pháp đó chẳng phải do Kim Đinh đặt ra mà đã có từ xưa. Con người khôn ngoan nhận ra rằng, không phải là lịch sử nhưng huyền thoại, truyền thuyết là ký ức của cộng đồng dân cư về sự kiện quan trọng từng xảy ra trong quá khứ. Có nghĩa là những sự kiện lớn xảy ra trong quá khứ, được ghi trong ký ức cộng đồng rồi dần dà được mã hóa thành những truyền thuyết, huyền thoại. Từ nhận thức đó, nhiều người đi sâu giải mã trước hết là những huyền thoại lớn. Nhờ vậy, nhiều sự kiện từ xa xưa được sáng tỏ. Thành công hơn cả là những người giải thích Cựu ước. Từ câu chuyện về Noah, người ta lần ra trận đại hồng thủy 7500 năm trước. Từ truyền thuyết về ngôi Sao Hôm trong ngày Chúa ra đời, người ta tính ra, chúa Giesu được sinh vào một ngày mùa hè tháng Sáu. Cũng từ truyền thuyết trong Cựu ước, người ta viết cả cuốn sách về cội nguồn các sắc dân Trung Đông và Bắc Phi. Trước Kim Định, nhà tiên tri nổi tiếng người Mỹ Edgar Cayce phát hiện nhiều điều bằng giải mã huyền thoại. Sau Kim Định 30 năm, Stephen Oppenheimer, trong cuốn Địa đàng ở phương Đông, nhờ giải mã huyền thoại “các nhà thông thái từ phương Đông tới” đã phát hiện rằng, trong đại hồng thủy, người Đông Nam Á mang giống cây trồng, vật nuôi cùng tư tưởng về nông nghiệp tới Cận Đông. Từ liên hệ giữa chuyện anh em Cain và Abel trong kinh thánh với truyền thuyết anh em Manup và Culabôp vùng hải đảo Đông Nam Á, ông phát hiện ảnh hưởng của văn hóa Viễn Đông tới thế giới Arập…
Ai đọc Kim Định sẽ thấy, ban đầu khi lập thuyết, ông dựa vào sử Trung Hoa của Vương Đồng Linh và Chu Cốc Thành: thoạt kỳ thủy, người Hoa, Việt, Thái, Mông… sống ở phía nam dải Thiên Sơn. Người Việt theo nguồn sông Dương Tử xuống đồng bằng Hoa Nam, lên Hoa Bắc, chiếm cả 18 tỉnh của Trung Hoa, xây dựng nền kinh tế nông nghiệp lúa nước phát triển. Người Hoa do lối sống du mục nên nấn ná tại vùng thảo nguyên Thanh Hải, sau đó vào chiếm đất cùa người Việt, dựng vương triều Hoàng đế. Ông cũng sử dụng một số tư liệu khảo cố ít ỏi thời đó nói lên mối liên quan của đồ gốm Ngưỡng Thiều và gốm Hòa Bình. Chính những gợi ý từ lịch sử và khảo cổ này cho ông ý tưởng: Một khi người Việt nông nghiệp đã sống hàng vạn năm trên đất Trung Hoa, sau đó đất ấy bị chiếm bởi những bộ lạc du mục rồi từ những bộ lạc du mục, người Hoa trở thành dân nông nghiệp, sở hữu nền văn hóa nông nghiệp phát triển; đến nay, văn hóa Hoa Hạ vẫn mang dấu ấn văn hóa Việt… Vậy thì cái văn hóa gốc ấy phải của người Việt! Trong khi tất cả mọi người tùy thời, cho rằng Việt học Hoa, Việt được Hoa khai hóa, thì bằng linh cảm thần thánh, Kim Định nghĩ ngược lại: chính Hoa học từ Việt! Ông đã tìm thấy chứng cứ cho ý tưởng của mình ở kinh Thư, kinh Thi, trong Khổng Tử nhưng chưa đủ. Vì vậy, theo bước người đi trước, ông tìm trong huyền thoại. (2)
Không phải mọi giải mã truyền thuyết của Kim Định đều thành công. Không thiếu trường hợp khi hăng hái quá đà, ông trở thành tư biện, dẫn tới sai lầm. Loa thành đồ thuyết (3) là một thí dụ. Quá say với phương pháp của mình, ông đã viết cả cuốn sách giảng giải về thành Cổ Loa chín vòng, hình trôn ốc là biểu trưng tuyệt vời của văn hóa Việt. Khi khảo cổ học phát hiện thành chỉ có hai vòng do An Dương vương xây, còn vòng thứ ba do Mã Viện đắp, hóa ra không những không có chín vòng thành mà chả làm gì có cái thành hình trôn ốc vì con người sống, đánh trận thế nào trong cái thành quái đản như vậy?!
Việc giải mã huyền thoại thành công hay thất bại tùy thuộc tài năng người sử dụng, nhưng bản thân phương pháp này tồn tại khách quan, như một công cụ để con người tìm hiểu quá khứ. Có thể phê phán Kim Định khi ông diễn giải sai lầm truyền thuyết cụ thể nào đó nhưng không thể phủ nhận rằng, chính nhờ công cụ này, ông đã phát hiện ra gia tài vĩ đại của tộc Việt là nền minh triết Việt nho, đó là phát kiến lớn nhất về văn hóa Việt!
II. Về thuyết Việt nho
Nói một cách đại lược, thuyết Việt nho cho rằng, thoạt kỳ thủy, người Việt nông nghiệp đã sáng tạo nền văn hóa nông nghiệp minh triết và nhân bản, được gọi là Nguyên nho hay Việt nho. Việt nho được các thánh hiền người Việt đúc kết trong kinh Thư, kinh Thi, kinh Dịch, kinh Lễ, kinh Nhạc. Khi chiếm đất Việt, người Hoa Hạ chiếm luôn làm của riêng. Nếu Khổng nho còn giữ được ít nhiều cái gốc nhân bản Việt nho thì Hán nho, Tống, Minh, Thanh nho dã làm sa đọa Việt nho để phục vụ vương triều.
Cái quan trọng nhất trong ý tưởng của Kim Định là ông xác quyết: tộc Việt đã xây nền văn hóa minh triết nhân bản rồi người Hoa chiếm đoạt và học theo. Ông kiên quyết đòi lại chủ quyền văn hóa cho tộc Việt.
Những năm Bảy mươi thế kỷ trước, trong bối cảnh tầng lớp trí thức tinh hoa Việt vẫn học theo học giả phương Tây cho rằng các làn sóng văn minh được truyền từ châu Âu sang Trung Hoa, Ấn Độ rồi từ đây xuống Đông Nam Á thì những ý tưởng mà Kim Định đưa ra chẳng khác nào chuyện khôi hài, là sự báng bổ lương tri! Đúng như ông Tạ Chí Đại Trường nhận xét, nhiều người im lặng cười khinh vì không thèm chấp! Người phản bác Kim Định kịch liệt nhất có lẽ là nhà văn Bình Nguyên Lộc. Có thể nói, trong cuốn Nguồn gốc Mã Lai của người Việt Nam, Kim Định trở thành bung xung để tác giả phỉ báng! Ông không trả lời Bình Nguyên Lộc trực tiếp mà đã viết cuốn “Vấn Đề Nguồn Gốc Văn Hóa Việt Nam” (Nguồn Sáng 1973) để làm sáng tỏ vấn đề.
Bốn chục năm đi qua, thời gian làm rõ nhiều chuyện: không phải người Việt Nam có nguồn gốc Mã Lai mà ngược lại, người Mã có nguồn gốc Việt! Nhưng kỳ diệu nhất là, mỗi bước đi của nó là một chứng minh cho sự đúng đắn của thuyết Việt nho. Ngay trước thềm thế kỷ XXI, khoa học tìm ra gốc gác duy nhất châu Phi của nhân loại. Tiếp đó, xác định con đường ven biển Ấn Độ đã đưa người tiền sử tới Việt Nam rồi từ Việt Nam, người Việt cổ đi lên khai phá Trung Quốc. Khoảng 20.000 năm trước, người Hòa Bình đã đưa công cụ Đá Mới lên Trung Hoa và chậm nhất, 12000 năm trước, đưa cây lúa tới đồng bằng sông Dương Tử… Di truyền học cũng giúp ta phát hiện rằng, những bộ lạc xâm lăng Bách Việt 2600 năm TCN không phải người Hán mà là người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid). Chỉ khi vào Trung Nguyên, họ hòa huyết với người Việt, mới sinh ra người Hoa Hạ, thuộc chủng Mongoloid phương Nam (South Mongoloid), tổ tiên của người Hán. Là con lai của tộc Việt, sống trên đất đai và văn hóa Việt, người Hoa đã học nghề nông, tiếng nói, chữ viết cùng văn hóa Việt để xây dựng các vương triều Trung Hoa… Từ thành tựu mới nhất của khoa học nhân loại soi vào tiền sử Á Đông, ta biết rằng, suốt hơn 2000 năm, bên cạnh các vương triều Trung Hoa, vẫn tồn tại những nhà nước hùng mạnh của người Việt: Ba, Thục phía tây; Ngô, Việt, Sở phía đông; Văn Lang phía nam. Những quốc gia Việt này có nền kinh tế và văn hóa rất phát triển để sản xuất ra tượng đồng Ba Thục, kiếm Việt, trống đồng Văn Lang… Tần Thủy hoàng thôn tính các quốc gia Việt, lập nên nhà Tần, thực chất là việc sáp nhập đất đai, dân cư cùng văn hóa Việt vào đế chế Tần. Đất nước Trung Hoa được xây dựng chủ yếu trên cơ sở con người cùng văn hóa Việt! Như vậy, thực tế lịch sử đã đi xa hơn dự cảm dù là thiên tài của Kim Định!
Đi vào cụ thể, đến nay nhiều tác giả như Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Thiếu Dũng, Trần Quang Bình, Hà Văn Thùy, Hà Hưng Quốc (USA)… chứng minh một cách không thể phản bác rằng, sách Dịch là sản phẩm của Việt tộc. Chỉ cần đưa ra lẽ đơn giản: truyền thuyết Trung Hoa nói Phục Hy là tổ của họ, sống khoảng 4480-4369 TCN và làm ra Dịch. Trước đây chưa hiểu gốc gác người Hoa nên chúng ta chưa thể tranh biện về điều này. Nhưng nay, xác định được rằng, người Hoa là con lai của tộc Việt với người Mông Cổ, ra đời khoảng 2600 năm TCN. Vậy, khi nói Phục Hy làm Dịch thì có nghĩa là Dịch xuất hiện 1700 năm trước khi người Hoa ra đời! Không chỉ sách Dịch mà ngay cả ngôn ngữ người Trung Hoa đang dùng cũng là sản phẩm của tộc Việt! (4)
Đánh giá cống hiến của Kim Định
Do nắm bắt một cách hệ thống tri thức khảo cổ học, cổ nhân chủng học, ngôn ngữ, văn hóa học, kết hợp với những khám phá mới về di truyền học dân cư Đông Á, tôi đã xác định được cội nguồn người Việt, người Hoa, người Nhật, người Hàn, người Ấn… Từ đó, bằng những chứng cứ khoa học không thể phản bác, khẳng định người Việt sáng tạo nền văn hóa nông nghiệp phương Đông rồi trên cái nền ấy, người Hoa Hạ học theo để xây dựng văn hóa Trung Hoa. Chẳng có gì huyền bí cả vì đó là kết quả của khảo cứu khoa học. Nếu hôm nay tôi không làm thì sớm muộn gì cũng có người khác tìm ra!
Nhưng điều mà tôi và không ai khác làm nổi là khám phá đặc điểm của nền văn hóa nông nghiệp Việt tộc. Một phát kiến thực sự vĩ đại mà duy nhất thiên tài Kim Định làm được! Nó quá lớn lao tới độ sau nửa thế kỷ, nhiều người vẫn còn ngỡ ngàng. Trong sự pha trộn, đa tạp của Khổng nho, Hán nho, Tống nho rồi Minh, Thanh nho… ông chỉ ra nền văn hóa Việt cội nguồn minh triết và nhân bản với bốn yếu tố:
1. Quan niệm về vũ trụ tham thiên lưỡng địa.
“Nhất âm, nhất dương chi vị đạo”: Âm và Dương đó là đạo! Đạo ấy là bản thể và sự vận hành của vũ trụ. Đúng là Âm và Dương tạo ra đạo. Nhưng cái “đạo” đang lưu hành trong vũ trụ là bao nhiêu Âm cùng với bao nhiêu Dương? Nếu là cân bằng tĩnh một Âm (-1) + một Dương (+1) thì vũ trụ triệt tiêu, không tồn tại! Trên thực tế, vũ trụ vận hành theo chiều hướng đi lên, tích cực, có nghĩa là Dương chiếm ưu thế. Nhưng ưu thế tới mức nào? Người phương Đông khôn ngoan đã nhận ra Âm và Dương vận động hòa hợp trong phạm vi con số 5: Dương + Âm = 5 = con số vũ trụ! Nhưng vấn đề đặt ra là, trong con số vũ trụ đó, Dương bao nhiêu và Âm bao nhiêu? Chỉ có 2 đáp án: hoặc Dương 4, Âm 1 hoặc Dương 3, Âm 2! Đó là hai cách lựa chọn của con người cho sự phát triển. Minh triết phương Đông nhận ra 3 Dương + 2 Âm là con số vàng của vận hành vũ trụ. Cuộc sống là đi lên, là tăng trưởng, là Dương nhưng trong đó phần của Dương, của Trời là 3 còn giành cho Đất, cho Mẹ 2 phần sẽ đạt tới sự hài hòa cao nhất. Nhận thức ra bí mật lớn này của vũ trụ nhưng phương Đông không cứng nhắc nói “tam thiên nhị địa” mà ghi nhận theo minh triết “tham thiên lưỡng địa”: đúng là 3/2 đấy nhưng không phải là tương quan toán học cố định mà là tương quan biện chứng: lúc 3 nhưng có khi du di lớn hoặc nhỏ hơn 3 chút ít, đảm bảo sự năng động của phát triển.
Quan niệm như vậy của phương Đông khác hẳn quan niệm phương Tây. Vốn từ những người săn bắt hái lượm trọng động, chuyển sang du mục cũng trọng động, phương Tây quan niệm về một phương thức sống năng động, triệt để khai thác thiên nhiên cùng cạnh tranh với những bộ lạc khác. Trong con mắt của người phương Tây, vũ trụ cũng như cuộc sống vận hành theo tỷ lệ Dương 4 Âm 1. Đó là sự phát triển nóng, dẫn tới Dương cực thịnh, Âm cực suy, cuối cùng là phá vỡ cân bằng của thiên nhiên, của xã hội, gây ra thảm họa cho con người.
2. Quan niệm nhân sinh: Nhân chủ, Thái hòa, Tâm linh.
Từ văn hóa nông nghiệp lúa nước quán chiếu nhân sinh cùng vũ trụ, người phương Đông thấy rằng, vũ trụ hợp thành từ 3 yếu tố: Thiên, Địa và Nhân, trong đó con người là trung tâm của mối quan hệ này! Là chủ thể của vũ trụ, con người giữ quan hệ thái hòa với thiên nhiên vũ trụ cũng như với đồng loại. Và một khi con người đã Nhân chủ, Thái hòa như vậy thì đó là con người Tâm linh, cảm thông, linh ứng với những thế giới siêu nhiên khác.
3. Đạo Việt an vi.
Để sống được trong mối quan hệ như vậy với vũ trụ và đồng loại, con người cần thi hành đạo An vi. Trái với hữu vi là mọi hoạt động đều vì mối lợi nên tranh giành, chiếm đoạt. Trái với vô vi bị động, tiêu cực không ước mơ, không ham muốn, bàng quan, lánh đời… An vi là đạo sống tích cực hết lòng nhưng không phải do thôi thúc từ tư lợi mà do sự cần thiết của lợi ích chung. Trong khi phương Tây làm việc và sáng tạo vì lợi ích cá nhân thì phương Đông cũng làm việc, sáng tạo hết mình vì lợi ích chung trong sự đam mê của niềm vui và danh dự.
4. Bình sản
Ba hạt nhân trên sở dĩ tồn tại được là do đứng trên cơ chế bình sản. Đó là cơ chế đảm bảo sự công bằng nhất định trong phân chia thu nhập của cộng đồng. Không hề là chủ nghĩa bình quân vì không có ai toàn quyền phân phối của cải mà là bình sản nhằm đạt tới sự công bằng tương đối về tài sản. Trong ký ức phương Đông còn ghi lại cách phân chia tài sản thời cổ, đó là tỉnh điền: Cộng đồng chung tay vỡ khu ruộng, người ta cố làm cho khu ruộng vuông vức, sau đó chia làm 9 phần đều nhau. Tám gia đình cày cấy 8 phần xung quanh đồng thời chung tay chăm sóc phần ruộng giữa, gọi là ruộng giếng (tỉnh điền). Phần thu hoạch từ “tỉnh điền” được nộp vua. Sau này, cơ chế bình sản được chuyển sang hình thức công điền. Đến trước năm 1945 ở Việt Nam vẫn còn 20% công điền, ba năm một lần làng chia cho người nghèo cày cấy.
Bốn yếu tố kể trên là những đặc tính của văn hóa Việt cổ mà tôi gọi là hạt nhân minh triết, được hình thành từ xa xưa, rồi bị phiêu dạt, chôn vùi qua biến động lịch sử, hầu như mất dạng. Chính vì vậy, khai quật ra điều này là phát kiến lớn nhất của văn hóa Việt.
Không chỉ vậy, trong cuộc đời mình, Kim Định cho in 45 cuốn sách với hơn 8000 trang. Đó là cả một rừng chữ. Chưa mấy ai đi hết rừng chữ ấy và cũng chưa có ai dám nói là hiểu hết những gì Kim Định đề xuất nhưng có thể thấy trong đó định nghĩa khác về triết học để nêu bật vai trò quan trọng của minh triết phương Đông với văn hóa nhân loại. Cũng tìm được trong đó một nguyên lý giáo dục vừa khoa học vừa nhân bản được đề xuất nhằm phục hưng nền giáo dục đang sa đọa. Ở đó còn một đường lối xây dựng văn hóa cho nước Việt từ những phát kiến sâu thẳm của văn hóa cội nguồn. Ông cũng vạch ra mối tương quan văn hóa Đông Tây, sự khác biệt giữa du mục và nông nghiệp để tìm ra con đường đi tới của nhân loại… Điều chắc chắn, đó là kết quả của tấm lòng yêu nước, yêu dân tộc chân thành và trí tuệ siêu việt. Gần như suốt cuộc đời, Kim Định sống giữa hai làn đạn. Năm 45, do viết cuốn sách phê bình chủ nghĩa Mác, ông bị truy đuổi. Những năm sau này, là linh mục nhưng quá đề cao tinh thần dân tộc, ông không được lòng bề trên. Kết quả là, mười năm cuối đời (1987-1997), ông sống tại một nhà tu nước Mỹ, trong cô đơn và bị kiểm soát gắt gao. Học trò muốn gặp ông phải giả xin xưng tội để hỏi thêm về triết lý, trong sự chứng kiến của người giám sát.
Lúc bị đột trụy, bất tỉnh, máy tính của ông bị mất trong đó có chứa hơn mười tác phẩm đã viết xong hay chưa hòan tất để chờ xuất bản. Tới nay không ai biết máy tính đó đã đi đâu. Thật là một mất mát lớn lao cho văn hóa Việt !
Nhân cách và cống hiến của ông đáng để cho chúng ta kính trọng.
Có thể bình luận về phương pháp luận cũng như chủ thuyết của Kim Định, nhưng khi truy nguyên động cơ của ông để phê phán thì Tạ Chí Đại Trường đã sa vào suy đoán ngoài khoa học:
“Có thể nói lí thuyết Kim Định bắt nguồn từ ý tưởng bốc đồng huênh hoang của nhà chính trị trong thời gian mất nước vào tay người Pháp, cụ thể là của triết gia chính trị Lý Đông A/Nguyễn Ngọc (Hữu?) Thanh, Thư kí trưởng đảng Đại Việt Duy dân. Mất nước, người ta tưởng tượng ra một nước Việt Nam thời độc lập huy hoàng, to rộng…” “Lý Đông A mơ ước đến một Đại Bách Việt/Hồng Việt, một Đại Nam Hải…chỉ vì có quá khứ huy hoàng của một thời “văn hóa Môn””…
Không, ý tưởng của những nhà yêu nước như Lý Đông A, Nguyễn Hữu Thanh, Trương Tử Anh… không hề là “bốc đồng”, mà nó phản ánh tâm thức của cả một dân tộc nô lệ tìm sức mạnh từ quá khứ cho công cuộc giải phóng. Cũng không hề “huênh hoang” vì tâm linh mách bảo rằng tộc Việt từng có quá khứ huy hoàng. Thời gian chứng tỏ các vị đã đúng vì giang sơn huy hoàng Bách Việt là có thật! Không chỉ các vị mà đó còn là ý nguyện sâu thẳm của nhiều thế hệ Việt. Thậm chí ngày nay, tại Đài Loan, Quảng Đông vẫn còn người gốc Việt mơ ước về một liên bang Bách Việt! Mỉa mai, báng bổ những vị tiên liệt từng hy sinh cuộc đời vì lý tưởng giải phóng dân tộc, ông Tạ Chí Đại Trường không chỉ thiếu một tấm lòng!
Năm năm sau lần trao đổi đầu tiên với Tạ tiên sinh, tôi đã ngược thời gian, đi chặng đường dài về nguồn cội với ba cuốn sách Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt (Văn học, 2007), Hành trình tìm lại cội nguồn (Văn học, 2008) và Tìm cội nguồn qua di truyền học (Văn học, 5. 2011). Chẳng biết có phải là kẻ “dân tộc cực đoan” không, nhưng chắc chắn rằng trong hai cuốn đầu, tôi đã phục dựng thành công lâu đài nguy nga kỳ vĩ của cội nguồn và văn hóa Việt. Còn cuốn thứ ba, là những bậc - cấp - khoa - học vững chãi để khi lên đó, người đọc tin rằng không phải “lâu đài cất bằng hơi nước.” Hơn thế nữa, nó cung cấp phương pháp luận mới, góp phần làm lại nền khoa học xã hội nhân văn tiền - di truyền học (pre-genetics) đang lạc hậu và lạc đường thê thảm!
Trên mỗi bước đi, tôi đều thấy bóng dáng lồng lộng của triết gia Kim Định trong tư cách người chỉ đường thông tuệ, có lòng yêu dân tộc vô hạn. Vậy mà buồn thay, suốt từng ấy ngày tháng, có người kiên trì phản bác ông vẫn bằng giọng ngồi lê đôi mách vô sở cứ! Jared Diamond, Giáo sư Đại học California, tác giả những cuốn sách lừng lẫy Súng, thép và vi trùng; Loài tinh tinh thứ ba Sụp đổ từng nói câu đáng suy ngẫm: “Giờ không còn là lúc chơi với những hòn đá, những mẩu xương được nữa. Mọi phát hiện về con người nếu không được di truyền học kiểm chứng đều không đáng tin.” Khổng Tử dạy: “Bất độc thư vô dĩ ngôn.” Là nhà hiển-sử học, lạc vào cõi mênh mông của văn hóa-triết học thời tiền sử, trong tay không có đá, không có xương mà cũng chẳng có ADN, hỏi Tạ tiên sinh có gì để nói?!
Cũng như hai lần trước, lần thưa chuyện cuối cùng này tôi không hy vọng sử gia có lời để trả.. Dù biết là khoa học luôn phủ định thì với tầm mức trí tuệ nhân loại hiện nay, người có thể phản bác những luận cứ của tôi chỉ ra đời khi nào một khoa học công nghệ mới xuất hiện, lật ngược di truyền học hiện đại, chứng minh được rằng: không phải loài người Homo sapiens được sinh ra trước nhất tại châu Phi. Người tiền sử không theo ven biển Ấn Độ tới Việt Nam và người Việt Nam không có chỉ số đa dạng di truyền cao nhất, có nghĩa là cổ nhất Đông Á! Nhưng liệu có không một ngày như thế?!
Nói công bằng, trong bản văn công bố lần này, ông Tạ Chí Đại Trường có điều mới và đúng: người ủng hộ triết gia Kim Định ngày càng nhiều! Không chỉ những học trò Kim Định ở Anh, Mỹ, Úc lập Hội An Việt, in sách vở, dựng đài phát thanh quảng bá ông mà con em những người miền Nam xưa “im lặng cười khinh” cũng tìm học. Và lạ lùng hơn là người Hà Nội. Trước Bảy Lăm, miền Bắc hầu như không biết tới Kim Định. Sau đó thì sách của ông bị cấm. Nhưng, như Tagore nói: “Tư tưởng đi nhanh như gió. Gió qua biên giới không cần giấy thông hành”, xa lộ thông tin mang tư tưởng ông tới tận cùng ngõ ngách. Người Hà Nội với chiều sâu ngàn năm văn hiến vốn thâm trầm, không dễ tin. Nhưng khi thấy những “hạt nhân hợp lý” từ Kim Định, họ đã hưởng ứng. Và không như người đọc miền Nam nửa thế kỷ trước, bơ vơ ngơ ngác trước phát kiến mới lạ, rồi bị đám học phiệt bảo thủ làm rối trí. Hôm nay người Hà Nội tiếp nhận Kim Định trong bối cảnh học thuyết Việt nho đang tỏa sáng rực rỡ. Nếu thực sự khách quan, thực sự cầu thị, trước khi viết tiếp những lời phỉ báng, ông Tạ Chí Đại Trường nên bắt chước người Mỹ đặt câu hỏi “Why? Vì sao vậy? Vì sao ông càng rủa xả, người theo Kim Định càng nhiều?!”
Ngày 5 tháng Năm 2011
HVT
Tài liệu:
  1. http://www.anviettoancau.net/anviettc/index.php?option=com_content&task=view&id=493
  2. Kim Định. Việt lý tố nguyên. An Tiêm Sài Gòn, 1970.
  3. Kim Định. Loa thành đồ thuyết. Thanh Bình Sài Gòn, 1973.
  4. Hà Văn Thùy. Tìm cội nguồn qua di truyền học. Văn học, 2011
            Sách mới của nhà văn Hà Văn Thùy

Nhà văn Hà Văn Thùy vừa cho ra cuốn sach mới : Tìm cội nguồn qua di truyền học, do Nhà xuất bản Văn học ấn hành, dầy 390 trang khổ 14.5 x 20.5. Nội dung gồm ba phần
- Giới thiệu những tư liệu gốc vê di truyền học, trên cơ sở đó phát hiện nguồn gốc dân cư Đông Á.
- Những bài trao đổi với các tác giả khác về cội nguồn và văn hóa Việt.
- Vận dụng thành tựu khoa học mới để tìm cội nguồn và giải mã những vấn đề văn hóa Việt và phương Đông.

Văn Chương Việt Trong Bối Cảnh Hậu Hiện Đại - của Học Giả Hà Văn Thùy




                  PHẦN I :  XÓA BỎ MẶC CẢM ÂU TRUNG

Nếu Hậu hiện đại là "thái độ hoài nghi đối với mọi lý giải lớn" (1), thì có lẽ lý giải cần phải hoài nghi trước hết là quan niệm “dĩ Âu vi trung”. Cho đến nay, hầu hết con người trên Trái đất cho rằng, phương Tây là nơi sản sinh, là trung tâm ban phát văn minh cho phần còn lại của thế giới. Đó là sai lầm lớn mà từ giữa thế kỷ trước, một số học giả đã lờ mờ nhìn thấy. Nhưng chỉ sang thế kỷ này, nhờ những phát kiến của công nghệ di truyền, con người mới khám phá ra sự thực hoàn toàn ngược lại.

Lịch sử khí hậu Trái đất và công nghệ di truyền cho thấy, rất muộn, khoảng 10.000 đến 8000 năm trước, khi thời Băng Hà cuối cùng chấm dứt, châu Âu mới ra khỏi phương thức hái lượm và chuyển sang du mục.  Khoảng 7000 năm trước, nông nghiệp được đưa từ vùng Mesopotamia tới. Nhưng do không có hệ thống thủy lợi phát triển, phải tưới bằng nước trời nên ở châu Âu, nông nghiệp không trở thành ngành sản xuất chính. Các bộ lạc rồi các quốc gia cổ hình thành xung quanh Địa Trung Hải chủ yếu là dân du mục. Năng động, dũng mãnh, tôn sùng đầu lĩnh, tranh giành chiếm đoạt, trở thành đặc trưng châu Âu. Do hình thành muộn và phương thức sống du mục nên văn minh châu Âu kém phát triển. Cái gọi là văn minh Hy Lạp, cội nguồn văn minh châu Âu, thực ra chỉ là đồ ăn
cướp của văn minh Ai Cập qua cuộc xâm lăng của Alexander (2). Kẻ ăn cướp không tiêu hóa nổi cái “đạo” của nền văn hóa lớn phương Đông, đã sống sít diễn dịch nó theo tâm thức du mục, khiến cho văn minh châu Âu trở thành tiên thiên bất túc, không có nền tảng triết lý và đạo đức sâu xa. Thế kỷ V , văn minh phương Tây suy tàn và bước vào đêm trường Trung cổ suốt 1000 năm. Thế kỷ XVII, các nhà Khai Sáng châu Âu hé mắt nhìn ra thế giới, bỗng giật mình trước văn minh Á Đông. Ai đó, hình như Voltaire thốt lên: “Nếu bao giờ có một thời kỳ hạnh phúc nhất và đáng kính nhất trên Trái đất này thì đó là thời kỳ người ta theo luật cai trị của Khổng Tử." (3)  

Ba trăm năm qua, trên nền tảng của văn minh du mục, triết học duy lý đưa phương Tây tới bước phát triển thần kỳ. Trong khi đó, phương Đông với xã hội nông nghiệp truyền thống, lạc hậu thê thảm, trở thành miếng mồi ngon cho cuộc xâm lăng của phương Tây. Lòng kiêu ngạo văn hóa mang màu sắc sô vanh phương Tây kết hợp với sự khiếp nhược của trí thức phương Đông, tạo điều kiện cho chủ nghĩa dĩ Âu vi trung ra đời, rao giảng thuyết châu Âu là trung tâm, là cội nguồn của văn minh nhân loại, có sứ mạng khai hóa phương Đông.

Từ giữa thế kỷ XIX tới nay nhiều triết thuyết phương Tây ra đời, tác động tới toàn nhân loại, cuốn phương Đông vào trong vòng xoáy của những trào lưu đó.  Những Tượng trưng, Đa đa, Siêu thực, Trừu tượng, Hiện sinh, Hiện đại, Hậu hiện đại, Tân hình thức… quay cuồng trong vũ điệu bất tận khiến trí thức nghệ thuật phương Đông xây xẩm mặt mày trong trạng huống bi kịch của những kẻ vong bản là càng đi theo càng đuối sức !

Trong tình trạng thụ động vì bị lệ thuộc, trí thức phương Đông chưa bao giờ bình
tĩnh nhìn lại mình để đặt ra những câu hỏi rất cơ bản: Có đúng phương Tây là trung tâm của văn minh nhân loại? Bản sắc văn hóa phương Đông là gì? Và đâu là con đường độc đáo riêng phương Đông phải đi để xây dựng kinh tế cũng như văn hóa của mình? Khi người trí thức phương Đông chưa sẵn sàng đặt ra và trả lời những câu hỏi mang tính nguyên tắc như vậy, phương Đông mãi còn là kẻ đi sau !

Ở thế kỷ trước, nếu có ai đặt ra những câu hỏi như thế thì cũng chưa thể có câu trả lời bởi lẽ đơn giản là chúng ta chưa có tri thức cần thiết về quá trình hình thành văn minh nhân loại. Chỉ sang thế kỷ này, công nghệ di truyền cho ta những nhận thức mới, mở ra cái nhìn mang tính cách mạng về lịch sử văn minh nhân loại, chúng ta mới có đủ tri thức trả lời những câu hỏi cơ bản trên.  Những năm cuối cùng của tế kỷ XX, khoa học phát hiện rằng, từ 70.000 năm trước, khi đặt chân tới Đông Nam Á, tổ tiên chúng ta gặp môi trường thuận lợi nên sinh sản nhanh, sống thành tập đoàn lớn, có sự phân công lao động và sớm
bước sang văn minh Đá Mới. Khoảng 15.000 năm trước, người Việt Hòa Bình sáng tạo nông nghiệp lúa nước (4). Cho đến thiên niên kỷ IV TCN, nhân số vùng duyên hải Á Đông chiếm 54% nhân loại và có nền văn minh nông nghiệp phát triển nhất thế giới. Khoảng 7500 năm trước, trong cơn đại hồng thủy, người từ các đảo ngoài khơi Đông Nam Á di tản bằng thuyền tới nhiều vùng thế giới, nhờ vậy đã đưa văn minh nông nghiệp tới Trung Đông, tiếp sức cho nền nông nghiệp mới manh nha ở đây. Sau đó nông nghiệp từ nơi này du nhập châu Âu.

Từ những năm 70 thế kỷ trước, triết gia Kim Định đã rút ra cốt lõi của văn hóa phương Đông là Việt Nho với nội dung nhân chủ, thái hòa, tâm linh. Trong tam tài Thiên, Địa, Nhân thì con người là chủ, giữ vị trí tôn quý nhất. Với vai trò chủ nhân ông, con người sống thái hòa với nhau và với tự nhiên. Con người không chỉ là cơ thể vật chất mà còn là tâm linh. Đạo của phương Đông là An Vi. Không vô vi cũng không hữu vi mà con người an vi, sống an nhiên, an hòa, an bình, tận lực làm việc nhưng không phải vụ lợi mà vì thấy đó là việc cần làm. Phương Đông quan niệm về một vũ trụ cân bằng trong tương quan tham thiên lưỡng địa.Sống là phát triển, là đi lên, theo chiều Dương, nhưng trái với phương Tây trọng Dương thái quá thì phương Đông giữ tỷ lệ Dương 3 phần, Âm 2 phần. Tuy tôn trọng Cha Trời nhưng phương Đông lại bám chặt vào Mẹ Đất là quẻ Khôn cưu mang, nuôi nấng.

Khác với văn minh phương Đông xây dựng trên nền kinh tế nông nghiệp lúa nước lâu đời, có gốc minh triết và đạo lý sâu bền, văn minh phương Tây được sản sinh từ phương thức sống du mục nên trọng Dương, năng động nhưng thiếu cơ sở minh triết và đạo lý gốc nên là nền văn minh tiên thiên bất túc, bạo phát bạo tàn. Văn minh phương Tây trong mấy thế kỷ qua đã đưa nhân loại phát triển vượt bậc nhưng cũng dẫn tới suy thoái kinh tế thập niên 30, hai cuộc thế chiến khủng khiếp, chủ nghĩa phát xit, chủ nghĩa Staline tai họa của nhân loại, sự tàn phá môi sinh làm Trái đất nóng lên và cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay…
Từ những năm 70 thế kỷ trước, nhận ra sự khủng hoảng của tư tưởng và triết học phương Tây, nhiều thức giả Âu Mỹ đã làm cuộc hành trình tìm về phương Đông . Nhờ vậy, nhiều bí ẩn của phương Đông được khám phá làm phong phú tri thức loài người.

Điều đáng suy nghĩ là trong khi đó, trí thức phương Đông, nhất là giới trẻ, chưa ra khỏi vòng ngộ nhận Âu trung, vẫn theo vết xe đổ của các đàn anh, các bậc thầy. Không ít người cho rằng, biết được một hai ngoại ngữ, đọc ít cuốn sách mỹ học phương Tây, là đã nắm được tri thức tiên tiến của nhân loại! Cũng không ít người học một cách chụp giật những trường phái mỹ học phương Tây, áp dụng một cách sống sít trong vẽ tranh, làm thơ, viết văn rồi tự cho mình (hay nhóm mình) là hợp trào lưu, đi tiên phong…Hơn một lần, thực tế cho thấy họ là những kẻ tiên thiên bất túc: sự học đòi từ phương Tây sẽ chẳng bao giờ thuần thục! Và điều chắc chắn là học trò mũi tẹt da vàng sẽ chẳng bao giờ hơn được ông thầy mũi lõ! Trong khi đó, họ dễ dàng tha hóa, đánh mất cái độc đáo quý giá phương Đông mà nhiều thức giả phương Tây đang tìm học!

Sự nóng lên của Trái đất, trực tiếp hơn là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là tín hiệu báo động cho thấy, phương Tây đã dẫn nhân loại đi lạc đường. Đã tới lúc phương Đông không thể trao vận mệnh của mình cho phương Tây dắt đi được nữa mà phải tìm ra con đường thoát của mình cả về kinh tế cả về văn hóa. Trong tình huống như vậy, người viết văn trẻ ở Việt Nam phải làm gì?

Biết tiếng Anh, đọc sách phương Tây là cần nhưng cái cần trước hết là phải nắm vững tiếng Việt và viết thành thạo văn Việt. Không thể chấp nhận một nhà văn viết không rành tiếng mẹ đẻ, lại dùng thứ tiếng Việt lai căng, nửa ngô nửa ngọng. Một nhà văn Việt cũng không thể không biết chữ Nho. Nếu không thông thạo đến mức đọc được cổ văn thì chí ít cũng hiểu được ý nghĩa sâu xa của những từ Hán Việt thông dụng bởi lẽ đơn giản: nếu không hiểu được những từ đó, không hiểu được hồn tiếng Việt. Phải thuộc càng nhiều ca dao tục ngữ càng tốt. Trước đây nhiều nhà văn không phải học cái vốn cổ này vì đã được bà, mẹ dạy qua những bài hát ru. Nhưng nay, hầu như các bà mẹ không ru con, càng không ru bằng ca dao. Vì vậy, nhà văn phải tự học. Rồi kinh Thi: “bất học Thi vô dĩ ngôn” không chỉ là chuyện của ngày xưa. Nếu nhuần thấm Thi, người ta sẽ khôn ngoan hơn, văn sẽ đạt tới chiều sâu của tâm linh phương Đông. Học kinh Dịch để biết bói Dịch thì tốt, nếu không cũng phải biết được ý nghĩa của Thái Cực, Lưỡng nghi, Bát quái, Âm, Dương, Ngũ hành và hiểu được dịch lý. Cũng không thể bỏ qua Sử ký và những tác phẩm kinh điển của Trung Hoa, Ấn Độ và cố nhiên, các tác giả cổ điển Việt Nam.

Nhân giải Nobel văn chương năm nay, trên báo chí rộ lên câu hỏi: Nobel văn chương cho Việt Nam, tại sao không? Hỏi để cho vui và để khích lệ nhau chứ cái đích ấy còn xa lắm. Cái lẽ đầu tiên không phải thiếu tự do sáng tác mà chính là chúng ta đánh mất bản sắc của mình. Hãy nhìn vào Tagore, Kawabata, Kenzaburo Oe, Cao Hành Kiện. Họ rất hiện đại nhưng trước hết họ là phương Đông. Đánh mất bản sắc phương Đông của mình, chúng ta sẽ mất tất cả. Có câu ca thế này:

Giữ cho bền chí câu cua
Còn ai câu ếch câu rùa mặc ai!

Là người phương Đông, sống trên trầm tích của nền văn hóa rực rỡ do tổ tiên để lại, chúng ta yên tâm trì chí thâm canh trên mảnh đất của mình, chắc chắn sẽ sáng tạo những tác phẩm độc đáo làm nhân loại thán phục.  Thiết nghĩ, điều lớn lao nhất mà Hậu hiện đại mang lại là giải cái tâm thức vong bản, vọng ngoại đã ăn sâu trong tâm trí chúng ta.
                                                                        

                   PHẦN  2: HÓA GIẢI NGỘ NHẬN TRUNG HOA


I. Lật ngược lịch sử

Là nước lớn, đông dân, có nền văn hóa vĩ đại, Trung Hoa cũng là quốc gia đô hộ
Việt Nam suốt một nghìn năm. Vì vậy cái bóng Trung Hoa đè nặng lên nhiều thế
hệ Việt.

Mở đầu Đại Việt sử ký toàn thư, cuốn sử biên niên quan trọng nhất của người Việt, sử gia Ngô Sỹ Liên viết: “Thời Hoàng Đế dựng muôn nước, lấy địa giới Giao Chỉ về phía Tây Nam, xa ngoài đất Bách Việt. Vua Nghiêu sai Hy thị đến ở Nam Giao để định đất Giao Chỉ ở phương Nam…” Phải chăng sử gia mặc nhiên coi đất Việt là phiên thuộc của Trung Hoa và Hoàng Đế là thủy tổ của mình? Tới thời cận đại, cái bóng Trung Hoa càng nặng nề hơn do những luận thuyết của học giả phương Tây.

Năm 1932, từ một số di chỉ khảo cổ Việt Nam và Đông Á, nhà nhân học người Áo, Robert Heine-Geldern đưa ra thuyết “các đợt sóng văn hóa” cho rằng, văn minh từ Tây Bắc Trung Quốc được đưa xuống Việt Nam và Đông Nam Á. Các dân tộc Đông Nam Á không sáng tạo được gì về văn hóa mà đều nhận từ Trung Quốc và Ấn Độ.

Những năm 1940, hai nhà nhân học người Mỹ là F. Weidenreich và C.S.Coon đề xuất thuyết Đa vùng, cho rằng, loài người được sinh ra từ nhiều vùng khác nhau: Đông Nam Á, Đông Á, Tiền Á và châu Phi. Từ lý thuyết này đẫn tới giả thuyết: khoảng 500.000 năm trước, sống sót qua những lần băng hà, loài người từ phía nam dải Thiên Sơn di cư ra các vùng trên thế giới. Người Việt theo sông Dương Tử vào Đông Nam Trung Hoa rồi theo bờ biển tiến lên đồng bằng Hoa Bắc. Người Hán từ cao nguyên Thanh Hải vào nam Hoàng Hà chiếm đất của người Việt, đẩy các bộ lạc Việt xuống phía nam.(1)

Trong cuốn Khảo về cỗi rễ dân An Nam, học giả Pháp L. Aurousseau, viết “Vậy thời ta có đủ chứng cớ mà nói quyết rằng người An Nam ngày nay là dòng dõi trực tiếp của người nước Việt bị diệt năm 333, và tiên tổ ngàn xưa, về thế kỷ thứ VI trước Gia tô, đã ở miền tỉnh Triết Giang nước Tàu ngày nay, vào khoảng lưu vực con sông cùng tên ấy” (2). Căn cứ vào tài liệu của các nhà ngôn ngữ học lịch sử phương Tây, học giả Ngô Tất Tố viết: “Tiếng Việt mượn 70% từ tiếng Hán”.

Suốt thế kỷ XX, do bị khống chế bởi quan niệm như vậy về quá trình hình thành dân cư và văn hóa Đông Á, giới khoa học quốc tế nhiều phen bị động trước những chứng cứ khảo cổ. Theo quan niệm Nam tiến, số đông cho rằng, văn hóa Hán đã từ Ngưỡng Thiều truyền tới Long Sơn phía Nam sau đó lan tỏa xuống Đông Nam Á. Nhưng năm 1952, nhà địa chất học Thụy Điển, Carl Sauer, từ khảo cứu nguồn gốc cây trồng Đông Nam Á, cho rằng có thể đây là nơi thuần dưỡng thực vật đầu tiên trên thế giới. Đáng tiếc, ý kiến của ông không được chấp nhận. Thập niên 1970, từ những khám phá khảo cổ học tại Thái Lan, phát hiện những công cụ đồng sớm và những hạt thóc hóa than 3500 năm TCN, Tiến sĩ Wilheim G. Solheim II, Giáo sư nhân học, Đại học Hawaii đề xuất ý kiến cho rằng Đông Nam Á là trung tâm nông nghiệp sớm nhất thế giới. Văn hóa Long Sơn, cũng như Ngưỡng Thiều đều do văn hóa Hòa Bình giai đoạn sớm đưa lên. (3). Tuy nhiên,do những dẫn chứng không nhiều nên chưa được đông đảo giới nghiên cứu chấp nhận.

Vì vậy, như quán tính, cái bóng văn hóa trung Hoa còn trùm phủ sang cả thiên niên kỷ thứ III khi ông Nguyễn Gia Kiểng cho rằng: “Văn hóa Việt không có gì khác Trung Hoa. Có khác chăng chỉ là do chưa bắt chước kịp mà thôi!” (4) Ông An Chi miệt mài tra từ điển để chứng minh tất cả những chữ tưởng thuần Việt như các địa danh có tiền tố “Kẻ” ở đất tổ Phú Thọ cũng chỉ là “Cái, giới, giái của Tàu, đều 100% made in China” (5)…

Những năm cuối thế kỷ, nhờ sử dụng công nghê gen truy tìm cội nguồn nhân loại và con đường loài người chiếm linh Trái đất, khoa học đã phát hiện rằng, loài chúng ta, Homo sapiens chỉ có quê hương duy nhất là Đông Phi và được sinh ra khoảng 160.000 năm trước, sau đó lan tỏa ra toàn thế giới.(6) Khoảng 70.000 năm trước, theo ven biển tiểu lục địa Ấn Độ, người tiền sử đã tới Việt Nam. Gặp môi trường thuận lợi, người Việt sinh sôi nhanh chóng và lan tỏa khắp Đông Nam Á rồi lên khai phá lục địa Trung Hoa.(7)  Những khám phá di truyền học làm đảo lộn lịch sử loài người và là chiếc đinh cuối cùng đóng xuống thuyết Đa vùng, mở ra chân trời mới cho nhân loại nhìn về thời tiền sử.

II Nắn lại dòng dịch chuyển văn hóa

Do môi trường sống thuận lợi, được GS. Oppenheimer gọi là địa đàng ở phương Đông, người Việt cổ sinh sản nhanh, tạo nhân số đông đảo. Do sớm sống quần tụ thành xã hội, người Việt đã sáng tạo dụng cụ Đá Mới rồi phát minh ra cây kê, cây lúa, tạo dựng kinh tế nông nghiệp đầu tiên trên thế giới. Khoảng thiên niên kỷ thứ IV TCN, trên địa bàn Đông Á, với khoảng hơn 60% nhân loại, người Việt cổ đã xây dựng nền văn minh nông nghiệp rực rỡ nhất hành tinh.

Sử dụng phát kiến mới nhất của di truyền học soi rọi những tư liệu cổ nhân học, khảo cổ học, ngôn ngữ, văn hóa học và sử học, người ta nhận ra rằng, người Hoa Hạ, tổ tiên người Trung hoa hiện đại không phải là những bộ lạc từ phía tây bắc xâm nhập Trung Nguyên mà là con lai giữa người Mông Cổ chủng North Mongoloid và người Việt Australoid, ra đời sau 2600 năm TCN, hậu quả cuộc xâm lăng của người Mông Cổ xuống phía nam Hoàng Hà. Sự kiện này được xác minh trong nghiên cứu của Ballinger và nhóm của ông, phát hiện rằng người Việt Nam có chỉ số đa dạng di truyền cao nhất Đông Á. Tộc người có chỉ số đa dạng di truyền cao là gần hơn với gốc phát sinh, cũng có nghĩa là cổ hơn.(8) Là con laiViệt, sống trong môi trường người Việt đông áp đảo và có văn hóa cao, người
Hoa Hạ đã học nghề nông và văn hóa của tổ tiên Việt, trước hết là tiếng nói, chữ viết rồi phong tục tập quán, để xây dựng quốc gia Hoàng Đế.  Do người Việt quá đông và từ hàng vạn năm trước chiếm lĩnh Hoa lục mênh mông nên nhà nước Trung Hoa hàng nghìn năm chỉ là cái lõm nhỏ ở Trung Nguyên, bị ép giữa những quốc gia Việt hùng mạnh là Ba, Thục ở phía tây; Ngô, Việt, Sở phía đông và Văn Lang ở phía nam. Khi nhà Tần thôn tính các quốc gia Việt trên, đã sáp nhập toàn bộ đất đai, dân cư và văn hóa của người Việt vào đế quốc Tần.(9)

Từ thực tế lịch sử như vậy, kết luận tất yếu được rút ra:

a. Tất cả văn hóa vật thể và phi vật thể có mặt trên đất Trung Hoa trước 2600 năm TCN đều là sản phẩm của tộc Việt.
b. Văn hóa Trung Hoa được hình thành trên cơ sở tiếp thu, kế thừa văn hóa Việt.

Từ hai kết luận trên, ta có thể nhận ra những yếu tố gốc Việt trong văn hóa Trung Hoa như sau:

1. Ngôn ngữ: do cuộc sống nông nghiệp định cư lâu đời, người Việt cổ có vốn ngôn ngữ phong phú. Người Việt cũng sớm có chữ viết. Từ chữ Khoa đẩu, Hỏa tự, khoảng 12000 năm trước, người Việt đã sáng tạo chữ tượng hình, gần với chữ đời Thương (9). Giáp cốt văn và kim văn đời Thương chính là chữ của người Việt.
2. Kinh Dịch. Truyền thuyết Trung Hoa nói rằng “Phục Hy làm Dịch,” mà Phục Hy là ông tổ của người Việt, lại làm Dịch từ lâu trước khi người Hoa Hạ ra đời, vì vậy sách Dịch không thể của người Hoa Hạ.
3. Các kinh: Thi, Thư, Lễ, Nhạc là của người Việt, được điển chế từ trước và tồn giữ trong kho sách nhà Chu. Khổng Tử đã biên tập các sách này và truyền lại.
4. Nhiều phong tục tập quán Việt tồn tại trong dân gian Trung Hoa như tục ăn trầu, tục xăm mình…

Điều vui mừng là, nhiều người đã nhanh nhạy vận dụng những phát hiện khoa học mới của thế giới để tìm hiểu lịch sử và văn hóa tộc Việt và có những thành công đáng khích lệ.

Xin kể vài ví dụ.

Giáo sư Bùi Văn Nguyên viết cuốn Kinh Dịch Phục Hy khẳng định kinh Dịch là sản phẩm của tộc Việt.  Nguyễn Vũ Tuấn Anh với Tìm về cội nguồn Kinh Dịch. Nguyễn Thiếu Dũng với những bài báo Kinh Dịch - di sản sáng tạo của Việt Nam? Và Chiếc gậy thần - dạng thức nguyên thủy của hào âm hào dương. Đặc biệt là Trần Quang Bình với cuốn sách dầy dặn Kinh Dịch, sản phẩm sáng tạo của văn hiến Âu Lạc. Trong cuốn Thời Hùng Vương- Đông Sơn, Đoàn Nam Sinh phát hiện vết tích Dịch trên trống đồng Ngọc Lũ.

Trong việc này, Tiến sỹ Hà Hưng Quốc ở Hoa Kỳ đi được bước dài. Dựa trên tư tưởng Dịch của tổ tiên, ông sáng tạo bản Dịch mới, lấy tên là Việt dịch. Đây là bước tiến chưa từng có, đưa Dịch Việt đổi mới về chất, vượt qua Văn Vương và Khổng Tử. Không chỉ là trùng quái (8x8) 64 quẻ mà bản Dịch này có số quẻ là 8 lũy thừa 8 (8 bát phương) thành 40.320 quẻ, ứng với không chỉ càn khôn vũ trụ mà cả những hoạt động nhỏ nhất của con người! Không những thế, khi chỉnh lý Lục thập hoa giáp, ông nhận ra, bản thông dụng của Trung Hoa đã sai lầm khi cho ngũ hành tương sinh tuơng khắc là sự sinh khắc một chiều của năm loại vật chất. Trong khi đó, Việt dịch cho Ngũ  hành là  năm ngôi sao : Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ trong Thái dưng hệ, sinh khắc nhau theo cả chiều thuận và chiều nghịch, mở ra quan niệm biện chứng mới của Ngũ hành.

Năm 2006, khi viết tiểu luận: “Tiếng Việt, chủ thể tạo nên ngôn ngữ Hán”(9) tôi dựa trên quá trình lịch sử, văn hóa Đông Á và một số hóa thạch tiếng Việt trong cổ thư Trung Hoa. Đầu năm nay, anh Đỗ Thành, người Việt gốc Triều Châu, hiện sống ở Sacramento Hoa Kỳ gửi về loạt bài: Phát hiện lại Việt nhân ca; Phục nguyên Duy giáp lênh của Việt vương Câu Tiễn; Nguồn gốc chữ Nôm…

Lần đầu tiên tôi được biết cuộc phiêu du của bài thơ lục bát Việt. Xuất hiện 2800 năm trước trong câu chuyện nước Sở, được dịch từ tiếng Việt sang tiếng Sở rồi 800 năm sau vào nằm trong sách Thuyết uyển của Lưu Hướng dưới dạng chữ vuông. Nhưng hơn 2000 năm nay, các văn nhân của mọi thời đại không làm thông được nghĩa bài ca. Ngay trong bản mới nhất của một viện sĩ Viện khoa học xã hội Bắc Kinh ta cũng chỉ gặp một văn bản nửa ngô nửa ngọng! Nhưng Đỗ Thành nói: “Đọc Việt nhân ca là tôi biết ngay bài hát tiếng Việt. Khi lập lại nguyên văn của nó, thì sướng quá, đó lại là bài thơ lục bát.” Và không khó nhọc lắm, anh phục nguyên bài thơ trữ tình trong dạng chữ Việt cổ đa âm!(10) Duy giáp lệnh của Việt vương Câu Tiễn cũng có số phận tương tự (11)! Cũng nhờ anh, lần đầu tiên tôi được biết, trên đời không hề có ông Bàn Cổ mà đó là chữ “bầu” của người Việt, khi chuyển sang tiếng quan thoại không có âm tương ứng nên đọc là “pù quo” với nghĩa là quả bầu! Trong truyện cổ người Dao, trái bầu sinh ra muôn loài nên “pù quo” thành Ông Bàn Cổ! Thôn Trữ La của nàng Tây Thi chính là thôn bên trái, thôn Tả trong tiếng Việt. Không hề có vua Trụ vua Kiệt mà đó là hỗn danh người Việt đặt cho hai hôn quân vua đụ và vua cặc, bị biến âm qua chuyển ngữ!

Bằng quá nhiều chứng cứ không thể phản bác, tác giả Đỗ Thành chứng minh đầy thuyết phục rằng, chính người Việt là chủ nhân của chữ tượng hình trong giáp cốt văn và kim văn (12)! Anh tâm sự: “Ở Sacramento tôi phải giấu những bài viết của mình vì sợ phiền. Nhưng từ khi đưa lên mạng, nhiều người biết rồi cự nự. Có lần cùng mấy người bạn hầu chuyện một vị trưởng thượng tuổi ngoài tám mươi, cũng trong giới học thức. Cụ dũa ghê quá. Chờ cụ nói xong, tôi xin thưa lại. Nghe nói, mặt ông cụ cứ đờ ra. Chỉ mươi phút sau, cụ gật gật đầu: “Thiệt vậy sao? Hay quá ta! Thằng nầy giỏi thiệt!”

Đỗ Thành nói rằng, nhiều nhiều lắm, không kể xiết những chữ Việt  tồn tại trong Hán văn. Muốn cho đủ, có lẽ phải làm cuốn Bách Việt tự điển hay Thuyết văn giải tự ngược. Hứa Thận chuyển cách đọc từ Việt sang quan thoại, còn Thuyết văn giải tự mới sẽ chuyển từ phát âm quan thoại sang âm Việt. Như thế không chỉ khôi phục cách đọc mà còn làm rõ nghĩa rất nhiều chữ Việt bị biến đổi trở thành vô nghĩa trong chữ Hán. Không chỉ vậy, anh Đỗ Thành còn muốn phụcnguyên bản gốc tiếng Việt của kinh Thi, kinh Thư, Đạo đức kinh, Sở từ để có được những Thi kinh bản nghĩa, Thư kinh bản nghĩa, Đạo đức kinh bản nghĩa, Sở từ bản nghĩa … Chỉ có thế mới có thể hiểu hết cái hay cái đẹp nguyên sơ của bản văn tiếng Việt. Điều trớ trêu là suốt 2000 năm qua không học giả nào làm được trong khi đó lại là công việc khá dễ dàng với Đỗ Thành vì anh là người Mân Việt, thông thạo phương ngữ Triều Châu, Quảng Đông, Việt Nam…và dòng máu Việt chảy trong huyết quản anh. Nhưng anh không thể vì phải đi dạy lái xe kiếm sống nuôi con. Anh chỉ có thể đọc, viết lúc đêm khuya.

                                              II. KẾT LUẬN

Đã quá lâu rồi thế giới sống với lịch sử đảo lộn và dối trá.   Trong khi tổ tiên ta từ Việt Nam mang rìu đá, cây kê, cây lúa lên mở mang đất Trung Hoa, xây dựng nơi đó nền văn minh nông nghiệp rực rỡ nhất hành tinh thì chính sử ghi rằng, mọi văn minh của chúng ta đều do người Trung Hoa mang đến. Trong khi tổ tiên chúng ta kết hợp với người Mông Cổ sinh ra người Hoa Hạ thì chính sử dạy rằng, chính người Hoa Hạ là thủy tổ chúng ta!

Trong khi tổ tiên ta sáng chế ra chữ vuông, kinh Dịch, rồi Thi, Thư, Nhạc, Lễ thì chúng ta được dạy rằng đó là sản phẩm Trung Hoa còn chúng ta phải học nhờ đọc mướn!

Sự phát hiện lại lịch sử và văn hóa dân tộc trước hết giúp chúng ta nhận thức đúng về tổ tiên, nòi giống mình. Đó là một tổ tiên vĩ đại, sống vô cùng minh triết, với lòng nhân ái bao la đồng thời sáng tạo những công nghiệp kỳ vĩ cho nhân loại.

Đó cũng là lần cuối cùng trong lịch sử, chúng ta hóa giải cái bóng Trung Hoa từng đè nặng tâm khảm dân tộc. Giải phóng văn hóa là cuộc giải phóng lớn lao nhất, toàn diện nhất, triệt để nhất. Từ đây, chúng ta xác lập vị trí ít nhất là bình đẳng với người Trung Hoa về phương diện Văn hóa. Lịch sử còn dài nên còn nhiều việc phải làm. Nhưng từ nay, chúng ta làm lịch sử với tư thế khác. Văn chương Việt cũng cần được xây dựng trên tinh thần này.  Hy vọng rằng mọi con dân Việt sẽ xứng đáng với tổ tiên.

Tài liệu tham khảo.

 1. Vương Đồng Linh. Trung Quốc dân  tộc học. Dẫn theo Kim Định. Cơ cấu Việt
Nho. Sài Gòn 1973, Tr 244-245
 2. Léonard Aurousseau, "Khảo về cỗi rễ dân An Nam". Bản dịch của Hồng Nhân
Phạm Quỳnh. Nam Phong tạp chí số 84, tháng 6-1924, tr.480. Dẫn theo Cao Thế
Dung: Tên nước Việt.
3. Wilheim G. Solheim II. Ánh sáng mới trên vùng quên lãng. National Geographic, Vol. 139, No. 3, 3. 1971.
4. Nguyễn Gia Kiểng. Tổ quốc ăn năn
5. An Chi. Về những địa danh “thuần Việt” thời Hùng Vương. Những tiếng trống đánh qua nhà sấm. NXB Trẻ, 2004.
6. Stephen Oppenheimer; Out of Eden Peopling of the World (www.bradshaw foundation.com). và Journey of Mankind the Peopling of the World (http://www. bradshawfoundation.com/journey/).
7. J.Y. Chu et al: Genetic relationship of population in China. Proc. Natl. Acad.
Sci.USA 1998 số 95 tr. 11763-11768.
8. S.W. Ballinger et al: Southeast Asian mitochondrial DNA Analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migration. Genetic 1992 số 130 Tr.139-45
9. Hà Văn Thùy. Hành trình tìm lại cội nguồn. NXB Văn học, 2008.
10. Đỗ Thành. Phát hiện lại Việt nhân ca. Văn hóa Nghệ An số 179 ngày
25.8.2010 http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/tulieu_tacpham.asp?
TPID=12183&LOAIID=17&LOAIREF=5&TGID=2079
11. Đỗ Thành. Phục nguyên Duy giáp lệnh của Việt vương Câu Tiễn http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/tulieu_tacpham.asp?
TPID=12183&LOAIID=17&LOAIREF=5&TGID=2079
12. Đỗ Thành. Nguồn gốc chữ Nôm. http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/tulieu_tacpham.asp?
TPID=12597&LOAIID=29&LOAIFID=5&TGID=2079

1. Trịnh Lữ-Góp chuyện hậu hiện đại
http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=68&News=2375&CategoryID=34
2.  Ngô Tự Lập. Aristote, kẻ đạo văn lớn nhất mọi thời đại.
http://evan.vnexpress.net/News/phe-binh/nghien-cuu/2007/06/3B9AD8C2/
3. Dict. Philosophique tr. 108, dẫn theo Kim Ðịnh, Cửa Khổng tr.245 
4. Stephen Oppenheimer. Địa đàng ở phương Đông. NXB Lao động 2004.

                                                              1.12. 2010.