Monday, November 29, 2010

Giải Mã Những Bí Ẩn Trong Tử Vi - bài 5




GIẢI MÃ BÍ ẨN TRÀNG SINH
Cách an vòng sao Tràng Sinh là một bí ẩn nằm chồng lên bí ẩn tam hợp cục.  Qui luật an vòng sao Tràng Sinh được thiết kế trên nền mống tam hợp cục.  Mà cấu trúc của tam hợp cục tự nó đã là một bí ẩn thì đương nhiên qui luật an vòng Tràng Sinh cũng là một bí ẩn.  Điều mà học giả NVTA ghi nhận “có vẽ không tuân theo qui luật tương sinh của Ngũ hành” cũng là đương nhiên vì tự bản thân của tam hợp cục đã không tuân theo qui luật tương sinh của thuyết ngũ hành phổ cập thì làm sao qui luật an vòng sao Tràng Sinh được thiết kế trên nền móng tam hợp cục đó có thtuân theo qui luật tương sinh của thuyết ngũ hành phổ cập được.  Thêm vào đó là việc an thuận hay an nghịch chiều kim đồng hồ và từ cung nào tới cung nào lại là một bí ẩn khác; cũng tạo ra nhiều mơ hồ trong lý giải, khiên cưỡng trong tranh biện, và hỗn loạn trong ứng dụng.  Rồi lớp bí ẩn sau hết là cách an vòng sao Tràng Sinh cho Thổ Ngũ Cục.  Vì có tới 5 Tử Vi cục mà chỉ có 4 tam hợp cục nên mới có chuyện rắc rối ở đây.

Hầu hết các thầy Tử Vi đều khởi Trường Sinh tại Dần Thân Tỵ Hợi căn cứ theo Cục, Dương Nam Âm Nữ thì theo chiều thuận, Âm Nam Dương Nữ thì theo chiều nghịch.  Theo giải thích của thienkhoitimvui, một cao thủ lý số và là một hội viên của diễn đàn Mệnh Lý Tổng Quát trên website Tử Vi Lý Số tại www.tuvilyso.net  thì “Về cách an TSinh theo lối Tử Vi truyền thống và Phổ dụng nhất này, thì tôi khẳng định ấy là thuyết Tsinh như Gốc vậy. . .” và Ngay như lối Tsinh của Tử Vi truyền thống, phổ dụng, cũng đã có sự triển khai riêng một chút so với Lí Thuyết TS gốc, ấy là có trường hợp đi nghịch, trong khi Lí Thuyết gốc chỉ tính thuận.”  Như vậy thì, căn cứ theo sự giải thích của thienkhoitimvui, phái thứ nhất còn gọi là phái truyền thống gốc chỉ an vòng sao Tràng Sinh theo chiều thuận chứ không có chiều nghịch cho Âm Nam và Dương Nữ.

Phái thứ hai, phái “truyền thống” và “đi nghịch,” điển hình có Tử Vi Gia Vân Đằng Thái Thứ Lang.  Theo chỉ dẫn của ông [trích trong Tử Vi Đẩu Số Tân Biên] thì cách an vòng sao Tràng Sinh như sau:
  • Kim Cục an Tràng Sinh tại Tỵ;
  • Mộc Cục an Tràng Sinh tại Hợi;
  • Hoả Cục an Tràng Sinh tại Dần;
  • Thủy Cục an Tràng Sinh tại Thân;
  • Thổ Cục an Tràng Sinh tại Thân; và
  • Sau khi an sao Tràng Sinh xong thì Dương Nam-Âm Nữ theo chiều Thuận, Âm Nam Dương Nữ theo chiều Nghịch mà an lần lượt 11 sao còn lại của vòng Tràng Sinh.

Phái thứ ba thì an vòng Tràng Sinh theo cách: (a) với Dương Nam và Âm Nữ thì khởi Tràng Sinh tại Dần Thân Tỵ Hợi rồi theo chiều kim đồng hồ an 11 sao còn lại hoặc là (b) cho Âm Nam và Dương Nữ thì khởi Tràng Sinh tại Tí Ngọ Mão Dậu rồi theo chiều ngược kim đồng hồ an 11 sao còn lại.  Điển hình cho phái này có Hà Lạc Dã Phu Việt Viêm Tử, Thiên Lương, Thiên Phúc Vũ Tiến Phúc.  Theo cách của Tử Vi Gia Hà Lạc [trích Tử Vi Áo Bí Biện Chứng Học,1972] và của Tử Vi Gia Thiên Phúc [trích Tử Vi Giảng Minh] thì:
  • Dương Nam & Âm Nữ, Mộc Cục -- an Tràng Sinh tại Hợi, an theo chiều kim đ/h;
  • Dương Nam & Âm Nữ, Kim Cục -- an Tràng Sinh tại Tỵ, an theo chiều kim đ/h;
  • Dương Nam & Âm Nữ, Hỏa Cục -- an Tràng Sinh tại Dần, an theo chiều kim đ/h;
  • Dương Nam & Âm Nữ, Thủy Cục -- an Tràng Sinh tại Thân, an theo chiều kim đ/h;
  • Dương Nam & Âm Nữ, Thổ Cục -- an Tràng Sinh tại Thân, an theo chiều kim đ/h;
  • Âm Nam & Dương Nữ, Mộc Cục -- an Tràng Sinh tại Mão, an ngược chiều kim đ/h;
  • Âm Nam & Dương Nữ, Kim Cục -- an Tràng Sinh tại Dậu, an ngược chiều kim đ/h;
  • Âm Nam & Dương Nữ, Hỏa Cục -- an Tràng Sinh tại Ngọ, an ngược chiều kim đ/h;
  • Âm Nam & Dương Nữ, Thủy Cục -- an Tràng Sinh tại Tí, an ngược chiều kim đ/h;
  • Âm Nam & Dương Nữ, Th Cục -- an Tràng Sinh tại Tí, an ngược chiều kim đ/h; và
  • Sau khi an sao Trường Sanh, thứ tự an 11 sao còn lại theo chiều kim đồng hồ hoặc ngược chiều kim đồng hồ.

Tử Vi Gia Thiên Lương cũng an vòng sao Tràng Sinh giống như trên.  Tuy nhiên, riêng cho Thổ Cục, thì ông khởi vòng Tràng Sinh tại Dần và Ngọ.  
  • Khởi tại Dần cho Dương Nam và Âm Nữ rồi an theo chiều kim đồng hồ 11 sao còn lại;
  • Khởi tại Ngọ cho Âm Nam Dương Nữ rồi an ngược chiều kim đồng hồ 11 sao còn lại.

Dầu là theo phương pháp nào thì trên căn bản vẫn là: vị trí của các sao trong vòng Tràng Sinh được phân bố theo cấu trúc của tam hợp cục.  Chỗ khởi Tràng Sinh tùy thuộc vào Cục.  Mà Tử Vi Cục thì ăn vào tam hợp cục.  Hay nói cho rõ hơn:
  • Tử Vi Thủy Cục ăn vào Tam Hợp Thủy Cục Thân-Tí-Thìn;
  • Tử Vi Mộc Cục ăn vào Tam Hợp Mộc Cục Hợi-Mão-Mùi;
  • Tử Vi Hỏa Cục ăn vào Tam Hợp Hỏa Cục Dần-Ngọ-Tuất; và
  • Tử Vi Kim Cục thì ăn vào Tam Hợp Kim Cục Thân-Tí-Thìn.

Theo đó, vòng sao Tràng Sinh được phân bố như sau:
  • Sinh-Vượng-Mộ của Tử Vi Thủy Cục ăn vào Thân-Tí-Thìn của Tam Hợp Thủy Cục;
  • Sinh-Vượng-Mộ của Tử Vi Mộc Cục ăn vào Hợi-Mão-Mùi của Tam Hợp Mộc Cục;
  • Sinh-Vượng-Mộ của Tử Vi Hỏa Cục ăn vào Dần-Ngọ-Tuất của Tam Hợp Hỏa Cục; và
  • Sinh-Vượng-Mộ của Tử Vi Kim Cục ăn vào Tỵ-Dậu-Sửu của Tam Hợp Kim Cục.

Sự khắng khít giữa 4 tam hợp cục, 4 Tử Vi cục và 3 sao Sinh Vượng Mộ của vòng sao Tràng Sinh có thể thấy rõ trong hình H34. 


 H34: Tương Quan Giữa Tam Hợp Cục, Tử Vi Cục & Vòng Tràng Sinh

  
Nhìn vào hình H34 không khó cho người ta nhận ra tính cách chặt chẽ và trọn vẹn trong cấu trúc của đồ hình cũng như trong tương quan giữa Tam Hợp Cục với Tử Vi Cục và với Vòng Tràng Sinh.  Nó cũng cho thấy sự hoàn hảo và nhất quán trong sự tổng hợp/ liên kết các phần tử lại với nhau.  

Đồng thời cũng không khó cho người ta nhận ra và đặt nghi vấn: Làm sao Hỏa có thể sinh Kim?  Làm sao có thể Sinh ra ở Hỏa mà Vượng được ở Kim? 

Bằng vào lý thuyết sinh khắc của ngũ hành phổ cập thì dĩ nhiên là không thể tìm ra câu trả lời.  Đó là lý do tại sao học giả NVTA gán cho hai chữ “bí ẩn.”  Còn những lý luận tùy tiện thiếu “ngay thẳng” và những vay mượn từ bên ngoài để miễn cưỡng giải thích thì chỉ làm cho mọi việc vốn đã mù mờ càng thêm mù mờ.  Đó là lý do vì sao học giả NVTA nói là “gọt chân cho vừa giày.” 

Như đã nói nhiều lần trong bài viết này và ở những bài viết khác, như đã chứng minh trong bài viết này và ở những bài viết khác, cái [Hỏa sinh Kim] dường như là bất hợp lý trên không phải là lỗi trong cấu trúc, cũng không phải là lầm lẫn của cổ thánh sáng tạo ra nó, mà là bằng chứng tố cáo sự thất bại thảm hại của lý thuyết ngũ hành phổ cập của người sau.  Hay nói một cách khác, toàn bộ cấu trúc của hình H34 [tức là toàn bộ cấu trúc của tam hợp cục + sự phối hợp/ liên kết tam hợp cục với Tử Vi Cục và vòng Tràng sinh] không được kiến tạo trên nền tảng của lý thuyết ngũ hành phổ cập mà người đời sau cứ cố đem lý thuyết ngũ hành phổ cập ra mà giải thích thì làm sao không có chỗ bí.     

Nếu không được kiến tạo trên nền tảng của ngũ hành phổ cập thì nó được kiến tạo trên nền tảng nào?  Câu trả lời, như đã từng trả lời trước đây: nó được kiến tạo trên nền tảng của lý thuyết ngũ hành nguyên thủy, như được trình bày trong cuốn Việt Dịch của Hà Hưng Quốc.


 H34: Tương Quan Giữa Tam Hợp Cục, Tử Vi Cục & Vòng Tràng Sinh

  

H35: So Sánh Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập Với Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy


So sánh hai hình trên, chúng ta thấy ngay điều gì?  Chẳng phải đã quá rõ ràng là H34 khế hợp với hình vòng tròn bên phải của H35 đến mức độ không cần thêm lời giải thích nào nữa đó hay sao?  Và như vậy thì, không phải là H34 được kiến tạo trên nền tảng của thuyết ngũ hành nguyên thủy đó hay sao?  Tinh Lịch Khảo Nguyên có viết rằng “Mộc Tràng Sinh ở Hợi, Hỏa Tràng Sinh ở Dần, Kim Tràng Sinh ở Tỵ, Thuỷ Tràng Sinh ở Thân, Thổ cũng Tràng Sinh ở Thân, sống nhờ ở Dần. Tất cả từ Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đái, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng, thuận kinh qua 12 thời. Thiên Đạo tuần hoàn, sinh sinh không ngừng.”  Như vậy không phải là Lý Quang Địa đã mô tả cái vòng tròn “sinh sinh không ngừng” của H34 đó hay sao?   Tinh Lịch Khảo Nguyên cũng có viết rằng “Cho nên phương Mộc vượng mà Hỏa đã sinh; phương Hỏa Vượng mà Kim đã sinh, phương Kim vượng mà Thuỷ đã sinh, phương Thuỷ vượng mà Mộc đã sinh.”  Câu này không phải là Lý Quang Địa đã mô tả cái vòng tròn “sinh sinh không ngừng” của mô hình lý thuyết ngũ hành nguyên thủy trong H35 đó hay sao?   Và, đúng như vậy, các bạn không đọc lầm!  Lý Quang Địa đích thực đã viết “Hỏa vượng mà sinh Kim.”  Ngay trong cụm chữ này đây không phải là nó đã phủ nhận vai trò của lý thuyết ngũ hành phổ cập trong cấu trúc của H34 rồi hay sao?  Và đồng thời, không phải là đã xác nhận một sự thật không thể chối cải là cấu trúc của H34 được kiến tạo trên nền tảng của một lý thuyết khác: lý thuyết ngũ hành nguyên thủy, giống như trong hình H35 đó hay sao?  Và sau cùng “Từ Tràng Sinh thuận đẩy lên, nhỏ bé non nớt tất nhiên lớn mạnh, mới vượng thịnh thì tất suy nhược, dứt hết mới quay trở lại bắt đầu, vận động không cùng. Cho nên đó là đạo lý khiến cho Xuân, Hạ, Thu, Đông bốn mùa đan xen nhau vận hành, cho nên khí của Ngũ Hành thuận bày ra . . .” trình bày cái mốc để liên kết hai đoạn trên với nhau và cũng là liên kết mô hình H34 với H35.

Nếu chúng ta khảo cứu rộng hơn thì chúng ta sẽ nhận ra cách an vòng sao Tràng Sinh trong những bộ môn khác cũng hoàn toàn tựa trên nền móng của ngũ hành nguyên thủy.  Thí dụ như trong
Hiệp Kỷ Biện Phương Thư là đa số các sách Hán thì cách an vòng sao Tràng Sinh là:
  • Dương Thủy: Sinh Thân Vượng Tý Tử Mão Mộ Thìn;
  • Âm Thủy: Sinh Mão Vượng Hợi Tử Thân Mộ Mùi;
  • Dương Mộc: Sinh Hợi Vượng Mão Tử Ngọ Mộ Mùi;
  • Âm Mộc: Sinh Ngọ Vượng Dần Tử Hợi Mộ Tuất;
  • Dương Hỏa: Sinh Dần Vượng Ngọ Tử Dậu Mộ Tuất;
  • Âm Hỏa: Sinh Dậu Vượng Tỵ Tử Dần Mộ Sửu;
  • Dương Kim: Sinh Tỵ Vượng Dậu Tử Tý Mộ Sửu; và
  • Âm Kim: Sinh Tý Vượng Thân Tử Tỵ Mộ Thìn

Dầu cho an thuận hay an nghịch, không cần biết phái nào đúng phái nào sai, thì cách an vòng Tràng Sinh của các phái trên căn bản vẫn là ăn theo cấu trúc hình của lý thuyết ngũ hành nguyên thủy [H35, vòng tròn bên phải] và vẫn không ra ngoài cấu trúc tam hợp cục.  An thuận thì ăn theo chiều kim đồng hồ trên cấu trúc hình của lý thuyết ngũ hành nguyên thủy.  Hình H34 cho thấy rõ điều này.  An nghịch thì ăn theo chiều ngược kim đồng hồ trên cấu trúc hình của lý thuyết ngũ hành nguyên thủy [H35].  Hình H37 và H38 cho thấy rõ điều này.  Riêng cách an nghịch của VĐ-TTL thì vẫn ăn vào chiều kim đồng hồ nhưng không theo Sinh-Vượng-Mộ.  Hình H36 cho thấy rõ điều này.



 H36: An Nghịch Chiều Theo Vân Đằng TTL


 H37: An Nghịch Chiều Theo Hà Lạc Dã Phu, Thiên Lương, Thiên Phúc


 H38: An Nghịch Chiều Theo Đa Số Hán Thư
                               
Với vòng tròn thuận chiều kim đồng hồ Thủy -> Mộc -> Hỏa -> Kim  + trung ương Thổ kết hợp với vòng tròn nghịch chiều kim đồng hồ Kim -> Hỏa -> Mộc -> Thủy + trung ương Thổ thì khẳng định không phải là cấu trúc ngũ hành của lý thuyết ngũ hành phổ cập.  Đây chẳng phải là bằng chứng phủ nhận lý thuyết ngũ hành phổ cập hay sao?  Một mặt khác, đây chẳng phải là bằng chứng cho thấy ngũ hành nguyên thủy của Việt Dịch mới chính là nền móng của những cấu trúc trên hay sao?                

Đến đây thiết tưởng tác giả cũng nên đóng góp một chút ý kiến của mình vào vấn đề làm thế nào để an vòng sao Trường Sinh cho Thổ Cục một cách hợp lý hơn.  Ý kiến có thể tóm gọn như sau:

  1. Hành Thổ ở Trung Ương được phân tán ra 4 vị trí Thìn Tuất Sửu Mùi trên 12 cung của địa bàn.  Tại mỗi vị trí đó, hành khí chuyển dịch từ một hành này sang một hành kế ngang qua trung gian Thổ.  Mộc chuyển sang Hỏa ngang qua trung gian Thìn Thổ.  Hỏa chuyển sang Kim ngang qua trung gian Mùi Thổ.  Kim chuyển sang Thủy ngang qua trung gian Tuất Thổ.  Thủy chuyển sang Mộc ngang qua trung gian Sửu Thổ.  Hành khí chuyển luân bất tận trên 12 cung theo vòng tròn ngũ hành từ Mộc tới Hỏa, từ Hỏa tới Kim, từ Kim tới Thủy, từ Thủy tới Mộc (Mộc -> Hỏa -> Kim -> Thủy -> Mộc . . .) như trong hình H39.   Ở vị trí Thìn Thổ dư khí của Ất Mộc ngày càng ít trong khi hành khí Hỏa ngày càng tăng do đó có thể nói là Thìn Thổ có khuynh hướng Hỏa, hay nói cách khác là Mùi Thổ đới Hỏa.  Ở vị trí Mùi Thổ dư khí của Ngọ Hỏa ngày càng ít trong khi hành khí Kim ngày càng tăng do đó có thể nói là Mùi Thổ có khuynh hướng Kim, hay nói cách khác là Mùi Thổ đới Kim.  Ở vị trí Tuất Thổ dư khí của Dậu Kim ngày càng ít trong khi hành khí Thủy ngày càng tăng do đó có thể nói là Tuất Thổ có khuynh hướng Thủy, hay nói cách khác là Tuất Thổ đới Thủy.  Ở vị trí Sửu Thổ dư khí của Tí Thuỷ ngày càng ít trong khi hành khí Mộc ngày càng tăng do đó có thể nói là Sửu Thổ có khuynh hướng Mộc, hay nói cách khác là Sửu Thổ đới Mộc.  Phân bố của ngũ hành trên 12 cung được tóm gọn trong hình H40.
 H39

H40
  1. Tất cả Thổ Cục trong Lục Thập Hoa Giáp thì gồm có:
·        Canh Ngọ, Tân Mùi [Lộ Bàng Thổ],
·        Mậu Dần, Kỷ Mão [Thành Đầu Thổ],
·        Bính Tuất, Đinh Hợi [Ốc Thượng Thổ]
·        Canh Tí, Tân Sửu [Bích Thượng Thổ]
·        Mậu Thân, Kỷ Dậu [Đại Trạch Thổ]
·        Bính Thìn, Đinh Tỵ [Sa Trung Thổ]
 
  1. Nếu như đương số có:
·        Thổ Cục thuộc vào nhóm đới Mộc tức là Thổ Cục Sửu/Dần/Mão [Thổ Cục Tân Sửu, Thổ Cục Mậu Dần, Thổ Cục Kỷ Mão], thì vòng Tràng Sinh sẽ được an theo Mộc Cục. 
·        Thổ Cục thuộc vào nhóm đới Hỏa tức là Thổ Cục Thìn/Tỵ/Ngọ [Thổ Cục Bính Thìn, Thổ Cục Đinh Tỵ, Thổ Cục Canh Ngọ], thì vòng Tràng Sinh sẽ được an theo Hỏa Cục. 
·        Thổ Cục thuộc vào nhóm đới Kim, tức là Thổ Cục Mùi/Thân/Dậu [Thổ Cục Tân Mùi, Thổ Cục Mậu Thân, Thổ Cục Kỷ Dậu], thì vòng Tràng Sinh sẽ được an theo Kim Cục.
·        Thổ Cục thuộc vào nhóm đới Thủy, tức là Thổ Cục Tuất/Hợi/Tí [Thổ Cục Bính Tuất, Thổ Cục Đinh Hợi, Thổ Cục Canh Tí], thì vòng Tràng Sinh sẽ được an theo Thủy Cục.
                           
  1. Chỉ an vòng sao Tràng Sinh theo một chiều, đó là chiều kim đồng hồ, dù là Âm Nam hay Dương Nam, Âm Nữ hay Dương Nữ.  Nếu đã chấp nhận nguyên lý Sinh-Vượng-Mộ và chấp nhận triết lý vòng Tràng Sinh đại diện cho một vòng luân hồi từ lúc nhập thai [Thai] cho tới khi chết [Tử] và mất hút [Tuyệt] thì không có lý do gì để phải an ngược chiều kim đồng hồ cho âm nam và dương nữ.  Vì làm thế sẽ vi phạm nguyên lý.  Hơn nữa, bản chất của Tử Vi Cục là ngũ hành nạp âm, tức là dòng khí tàng ẩn bên trong và là dòng hành khí dịch hành ngược chiều kim đồng hồ [xem H41 Việt Dịch Đồ].  Và ngũ hành nạp âm của âm nam/dương nữ không khác với ngũ hành nạp âm của dương nam/ âm nữ [xem bảng Lục Thập Hoa Giáp].  Còn vòng Tràng Sinh bản chất là dòng hành khí Dương và là dòng hành khí thể hiện ra ngoài thành hiện tượng Sinh-Vượng-Mộ [hay Sinh-Trưởng-Hoại-Diệt] dịch chuyển theo chiều kim đồng hồ [xem Việt Dịch Đồ].  Hai dòng hành khí một âm một dương, một chuyển dịch thuận một chuyển dịch ngược, một tàng ẩn bên trong một hiển bày  ra ngoài, tàng ẩn bên trong là Cục thể hiện ra ngoài là vòng tròn sinh tử có tên Tràng Sinh.  Tất cả đã an bày đầy đủ.  Cho nên, và tóm lại, chỉ an Tràng Sinh theo chiều kim đồng hồ là xong.          
 

H41 - Việt Dịch Đồ


Thí dụ cho người nam sinh năm Đinh Mùi tháng Tí giờ Mão.  Tuổi Đinh Mùi thì mạng là Thiên Hà Thủy.  Sinh tháng Tí giờ Mão nên cung an Mệnh đóng tại Dậu.  Tuổi Đinh/Nhâm lấy Nhâm Dần làm mốc thứ tự đếm tới vị trí Dậu để tìm Cục thì thấy đó là vị trí Kỷ Dậu và là Thổ Ngũ Cục [Đại Trạch Thổ].  Thổ Ngũ Cục Kỷ Dậu thuộc nhóm đới Kim cho nên an Tràng Sinh theo Kim Cục.  Tuy là Âm Nam nhưng chỉ an theo chiều thuận.  Theo đó, Tràng Sinh sẽ nằm tại Tỵ, Đế Vượng tại Dậu và Mộ tại Sữu.   


Thí dụ cho người nữ sinh giờ Sửu ngày 14 tháng 6 năm Giáp Ngọ.  Tuổi Giáp Ngọ thì bản mệnh là Sa Trung Kim.  Sinh tháng 6 giờ Sửu nên cung an Mệnh đóng tại Ngọ.  Tuổi Giáp/ Kỷ lấy Bính Dần làm mốc thứ tự đếm tới vị trí Ngọ để tìm Cục thì thấy đó là vị trí Canh Ngọ và là Thổ Ngũ Cục [Lộ Bàng Thổ].  Thổ Ngũ Cục Canh Ngọ thuộc nhóm đới Hỏa cho nên an Tràng Sinh theo Hỏa Cục.  Tuy là Dương Nữ nhưng an theo chiều thuận.  Theo đó, Tràng Sinh sẽ nằm tại Dần, Đế Vượng tại Ngọ và Mộ tại Tuất. 

tiếp theo: Giải Mã Những Bí Ẩn Trong Tử Vi - bài 6

Giải Mã Những Bí Ẩn Trong Tử Vi - bài 4





GIẢI MÃ BÍ ẨN TỬ VI CỤC
 
Tam hợp cục mà chúng ta đã vừa giải mã xong là tam hợp cục dùng để an vòng sao Tràng Sinh.  Bây giờ chúng ta thử xét đến bí ẩn của Tử Vi Cục.  Gọi nó là Tử Vi Cục, theo cách gọi của tác giả, là vì nó được dùng để an sao Tử Vi và những chánh tinh.  Trong bài Tính Hợp Lý Của Độ Số Cục Trong Tử Vi Và Lục Thập Hoa Giáp, học giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã viết:

[Trích]
“Hầu hết những người có tìm hiểu về Tử Vi đều biết cục số của Tử Vi lưu truyền trong cổ thư chữ Hán là:
Thủy - NHỊ Cục.
Mộc Tam Cục.
Kim Tứ Cục
Thổ Ngũ Cục
Hỏa - LỤC Cục

Bây giờ chúng ta cùng quán xét độ số trên Hà đồ với độ số cục do cổ thư viết bằng chữ Hán thì chúng khác nhau ở cục số của Thủy / Hỏa.  Điều này được mô tả như sau:




Như vậy; chúng ta cũng nhận thấy rằng sự sai lệnh này ở đúng vị trí của hai hành Thuỷ/Hỏa. Chúng ta cũng biết rằng:
Hành của cục trong Tử Vi chính là hành của tháng an Mệnh theo năm sinh của đương số.

Bởi vậy, khi Thuỷ/ Hỏa đã đổi chỗ cho nhau trong Lục thập hoa giáp thì hành của cục cũng sẽ đổi Thủy & Hỏa. Điều này được miêu tả so sánh như sau:


Qua sự so sánh trên, chúng ta lại thấy một sự trùng khớp hợp lý giữa độ số cục trong Lạc thư hoa giáp với Hà đồ, vốn là nguyên lý căn bản của nó. Còn bảng Lục thập hoa giáp lưu truyền qua cổ thư chữ Hán thì ngay cả người Hán cũng chẳng biết nguyên lý nào tạo ra nó và rối mù. Trước hết là không có tính nhất quán bởi độ số cục ngay từ đồ hình khởi nguyên của nó là Hà đồ (Đã chứng minh ở trên: Nguyên lý nghịch chiều tương sinh của Hà đồ). Người viết đã hân hạnh trình bày về tính qui luật và khả năng tiên tri là hai trong số những tiêu chí để thẩm định một lý thuyết khoa học.”

[Ngưng trích]

Sự thật trong vấn đề này là thế nào?  Để có câu trả lời chuẩn xác trước hết chúng ta cần nhìn lại toàn bộ cách thức thành lập Tử Vi Cục cho một lá số.

Để thành lập Tử Vi Cục trước hết người ta sẽ tiến hành an Mệnh bằng cách khởi từ cung Dần tính là tháng Giêng theo chiều thuận [mỗi cung một tháng] đếm đến tháng sinh thì ngừng lại rồi tại cung dừng đó tính là giờ Tý theo chiều nghịch [mỗi cung một giờ] đếm đến giờ sinh thì ngừng lại an Mệnh vào cung đó.  Sau khi đã an Mệnh, tùy vào Chi của cung an Mệnh và Can của năm sinh mà lập Tử Vi Cục [gồm cục hành và cục số], chiếu theo những chỉ dẫn như sau:
 

 H17A: Bảng Chỉ Dẫn Tìm Tử Vi Cục (trích sách Tử Vi VĐTTL)


Những bảng chỉ dẫn tìm Tử Vi Cục theo Chi của cung an Mệnh và Can của năm sinh trình bày trong H17A là bảng sao chép lấy ra từ sách của Tử Vi Gia Vân Đằng Thái Thứ Lang.

Câu hỏi mấu chốt được đặt ra ở đây là: từ đâu mà có những cục hành cục số này?  Hay hỏi một cách khác: những bảng chỉ dẫn tìm cục hành và cục số này được thành lập trên căn bản nào?

Trước hết chúng ta sắp xếp lại những bảng chỉ dẫn tìm cục hành cục số theo thứ tự từ Dần tới Sửu cho mỗi cặp Thiên Can của năm sinh và xỏ xâu những bảng chỉ dẫn đó lại với nhau thành một chuỗi liên tục theo thứ tự 60 hoa giáp.  Lý do là vì Tử Vi khởi an cung Mệnh tại Dần nên chúng ta muốn lấy Dần làm mốc và vì chúng ta cần làm một sự so sánh.  Kết quả sau khi đã xếp đặt lại được trình bày ở H17B và tạm gọi nó là Bảng Liệt Kê Ngũ Hành Của Tử Vi Cục:

H17B: Bảng Liệt Kê Ngũ Hành Của Tử Vi Cục

 
Tuy nhìn có khác nhưng nội dung H17B thì hoàn toàn giống với nội dung của những bảng chỉ dẫn tìm Tử Vi Cục do Tử Vi Gia Vân Đằng Thái Thứ Lang biên soạn trong H17A, ngoại trừ cục số tạm thời chưa đưa vào H17B. 

Bây giờ thì chúng ta có thể đem Bảng Liệt Kê Ngũ Hành Của Tử Vi Cục [H17B] vừa mới được thành lập đặt nằm cạnh bảng Lục Thập Hoa Giáp, như trong hình H18 bên dưới, để đối chiếu:


 H18: Bảng Liệt Kê Ngũ Hành Của Tử Vi Cục Đặt Nằm Cạnh Bảng LTHG

 
Đối chiếu nội dung của cột “Chi” [cột 3 tính từ rìa trái] và của cột “Ngũ Hành Nạp Âm” [cột 5] nằm trong Bảng LTHG với nội dung của cột “Cung An Mệnh” [cột 6] và của cột “Hành” [cột 7] nằm trong Bảng Liệt Kê Hành Của Tử Vi Cục, bắt đầu dò từng hàng một từ hàng thứ 3 xuống tới dưới, chúng ta dễ dàng nhận ra một sự trùng khớp tuyệt đối [đem hai hàng Tí Sửu cuối cùng trong Bảng Liệt Kê Ngũ Hành Của Tử Vi Cục lên trên đầu bảng sẽ thấy chúng ăn khớp với bảng LTHG từ hàng đầu đến hàng cuối.]  Điều này có nghĩa là: ngũ hành của Cục chính là ngũ hành nạp âm trong LTHG.  Điều này cũng có nghĩa là nội dung những bảng liệt kê cục hành cục số mà các tử vi gia sử dụng hiện nay là hoàn toàn rút ra từ bảng LTHG.

Nếu tinh mắt hơn chúng ta sẽ nhận ra là những cái mốc giúp cho sự trùng khớp giữa hai bảng đối chiếu nhau đều nằm tại vị trí Dần.  Bính Dần cho tuổi Giáp Kỷ,  Mậu Dần cho tuổi Ất Canh, Canh Dần cho tuổi Bính Tân, Nhâm Dần cho tuổi Đinh Nhâm, và Giáp Dần cho tuổi Mậu Quý .  Tất cả có 5 mốc Dần. Và 5 Dần này còn được gọi là Ngũ Hổ.  Như vậy thì cái gọi là Ngũ Hổ Độn Pháp mà các thầy lý số hay dùng không gì khác hơn là phương thức để tìm ra 5 cái mốc Dần và ngũ hành nạp âm trong bảng Lục Thập Hoa Giáp, như cho thấy trong hình H19.

          H19: LTHG Và Ngũ Hổ Độn


Và phương pháp để tìm ra 5 mốc Dần cho 5 nhóm Can thì rất là đơn giản, như sau:

Bước 1 viết xuống:
            Giáp (Kỷ)
            Ất (Canh)
            Bính (Tân)
            Đinh (Nhâm)
            Mậu (Quý )

Bước 2 vẽ những vạch để điền vào:
            Giáp (Kỷ) _____1
            Ất (Canh) _____   _____2
            Bính (Tân) _____   _____   _____3
            Đinh (Nhâm) _____   _____   _____   _____4
            Mậu (Quý) _____   _____   _____   _____   _____5

Bước 3 điền vào khoảng trống [căn cứ theo thứ tự liên tục Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý] để đi tới 5 mốc Dần:
            Giáp (Kỷ)   ất      Bính Dần
Ất (Canh)   bính     đinh    Mậu Dần  
            Bính (Tân)  đinh     mậu     kỷ     Canh Dần
            Đinh (Nhâm)   mậu     kỷ      canh    tân    Nhâm Dần
            Mậu (Quý)   kỷ     canh     tân    nhâm   quí   Giáp Dần

Xong bước 3 là hoàn tất xong 5 mốc Dần cho 5 nhóm Can. 

Cũng có thể dùng công thức toán học đơn giản do TS Đằng Sơn khám phá để tìm 5 mốc Dần cho 5 nhóm can.  Công thức đó là:  Y = 2X + 1.  Nếu kết quả lớn hơn 10 thì trừ bớt 10 lấy dư số làm Y.  Kết quả Y sau cùng cho biết nó là mốc Dần nào, chiếu theo liên hệ:
 
            CAN của năm sinh           Biến số X   
            Giáp (Kỷ)                           1 (6)               
            Ất (Canh)                           2 (7)               
            Bính (Tân)                          3 (8)
            Đinh (Nhâm)                      4 (9)
            Mậu (Quý)                         5 (10)

Thí dụ như cho người sinh năm Giáp Ngọ thì:
X = 1 
Y = 2X +1 = 2(1) + 1 = 3 
mà 3 = Bính tức là mốc Bính Dần    

Thí dụ cho người sinh năm Kỷ Hợi thì:
            X = 6 
            Y = 2X + 1 = 2(6) +1 = 13
            13 lớn hơn 10 nên trừ 10 và dư số là 3
Mà 3 = Bính tức là mốc Bính Dần

Thí dụ cho người sinh năm Tân Sửu thì:
            X = 8
            Y = 2X + 1 = 2(8) + 1 = 17 
            17 lớn hơn 10 nên trừ 10 và dư số là 7
            mà 7 = Canh tức là mốc Canh Dần

Như vậy thì chúng ta đã có thể khẳng định là ngũ hành của Tử Vi Cục chính là ngũ hành nạp âm trong Lục Thập Hoa Giáp.  Mà đã là ngũ hành nạp âm trong LTHG thì sẽ không có bóng dáng của lý thuyết ngũ hành phổ cập trong đó, như đã chứng minh ở phần Giải Mã Bí Ẩn Tam Hợp Cục cũng như trong bài Giải Mã Bí Ẩn Lục Thập Hoa Giáp.

Cục hành chỉ mới là một nửa của vấn đề trong Tử Vi Cục.  Một nửa còn lại là cục số.  Và cục số theo sách Tử Vi từ trước đến giờ thì cho là:
  • Thủy Nhị Cục;
  • Mộc Tam Cục;
  • Kim Tứ Cục;
  • Thổ Ngũ Cục;  
  • Hỏa Lục Cục. 

Hay nói một cách khác, cục số của Thủy là 2, của Mộc là 3, của Kim là 4, của Thổ là 5, của Hỏa là 6.  Cục số phối hợp với ngày sinh sẽ quyết định vị trí của sao Tử Vi trên địa bàn của một lá số, theo những qui luật như sau:
 
H20A: Vị Trí An Sao Tử Vi Cho Hỏa Lục Cục


 H20B: Vị Trí An Sao Tử Vi Cho Thổ Ngũ Cục

H20C: Vị Trí An Sao Tử Vi Cho Kim Tứ Cục

H20D: Vị Trí An Sao Tử Vi Cho Mộc Tam Cục

 H20E: Vị Trí An Sao Tử Vi Cho Thủy Nhị Cục


 Áp dụng những qui luật [trình bày trong những bảng chỉ dẫn vị trí an sao Tử Vi từ H20A tới H20E] để phân bố vị trí an sao Tử Vi trên địa bàn 12 cung thì sẽ cho ra những bảng chỉ dẫn vị trí an sao Tử Vi theo Cục và Ngày Sinh giống như những bảng chỉ dẫn trong H21 lấy ra từ trong sách của Vân Đằng Thái Thứ Lang. 

 H21: Bảng Chỉ Dẫn An Sao Tử Vi (trích sách TVĐSTB của VĐTTL)

 
Những qui luật trên cũng có thể được trình bày một cách khác, như trong đồ hình H22:


 H22: Đồ Hình Chỉ Dẫn An Sao Tử Vi


Đồ hình H22 cho thấy:
  • người mạng Hỏa Lục Cục sinh ngày 1 thì an sao Tử Vi tại cung Dậu, ngày 2 tại cung Ngọ, ngày 3 tại cung Hợi, ngày 4 tại cung Thìn, ngày 5 tại cung Sửu, ngày 6 tại cung Dần [từ 1H tới 6H];
  • người mạng Thổ Ngũ Cục sinh ngày 1 thì an sao Tử Vi tại cung Ngọ, ngày 2 tại cung Hợi, ngày 3 tại cung Thìn, ngày 4 tại cung Sửu, ngày 5 tại cung Dần [từ 1T tới 5T];
  • người mạng Kim Tứ Cục sinh ngày 1 thì an sao Tử Vi tại cung Hợi, ngày 2 tại cung Thìn, ngày 3 tại cung Sửu, ngày 4 tại cung Dần [từ 1K tới 4K];
  • người mạng Mộc Tam Cục sinh ngày 1 thì an sao Tử Vi tại cung Thìn, ngày 2 tại cung Sửu, ngày 3 tại cung Dần [từ 1M tới 3M]; và
  • người mạng Thủy Nhị Cục sinh ngày 1 thì an sao Tử Vi tại cung Sửu, ngày 2 tại cung Dần [từ 1Ty tới 2Ty].

Và những qui luật an sao Tử Vi cũng có thể được trình bày dưới dạng ma trận, giống như H23A:

 H23A: Ma Trận Chỉ Dẫn An Sao Tử Vi

Nội dung H23A cũng không khác với những gì vừa được giải thích về H22.  Cả hai, đồ hình H22 và ma trận H23A, chỉ cho tối đa là 6 ngày.  Còn sau đó thì sao?  Không khó!  Chỉ cần mở rộng  bằng cách: từ kết quả sơ khởi (a) tiến 1 cho mỗi cung và (b) cộng thêm số cục vào mỗi ô số ngày sinh.  Kết quả sẽ giống như H23B.  Tiếp tục tiến hành cho tới khi có đủ 30 ngày.


 H23B: Ma Trận Chỉ Dẫn An Sao Tử Vi (Bước Kế Tiếp)
   

 
Tất cả các cách trình bày trên về những qui luật an sao Tử Vi có lẽ đủ để chúng ta nhận ra là có một sự liên hệ chặt chẽ giữa cục số và ngày sinh với vị trí an sao Tử Vi.  Và chìa khoá là: làm cho sao Tử Vi nằm đúng vào cung Dần cho ngày sinh có cùng con số với cục số.  Hay nói một cách khác là Tử Vi tinh “phải” nằm tại cung Dần cho:
  • mạng Lục Cục sinh ngày 6;
  • mạng Ngũ Cục sinh ngày 5;
  • mạng Tứ Cục sinh ngày 4;
  • mạng Tam Cục sinh ngày 3; và
  • mạng Nhị Cục sinh ngày 2.

Và, như chúng ta đã biết, là:
  • tháng sinh và giờ sinh quyết định vị trí an Mệnh;
  • cung an Mệnh và Thiên Can của năm sinh quyết định Tử Vi Cục [cục hành + cục số];
  • rồi cuối cùng là Tử Vi Cục [chỉ có cục số] và ngày sinh quyết định vị trí của sao Tử Vi.  

  

Chúng ta cũng đã biết những cục hành của Tử Vi Cục là từ bảng LTHG mà ra.  Bây giờ thì đã đến lúc chúng ta phải hỏi: những cục số của Tử Vi Cục là từ đâu mà ra?  Một câu trả lời nghiêm túc không phải dễ có!      

Học giả NVTA dường như rất tự tin để cho rằng những cục số của Tử Vi chính là độ số của Hà Đồ.  Nếu chỉ dựa trên cơ sở “quen thuộc” hoặc “giống nhau” của những con số thì chưa đủ để chúng ta dám xác định như vậy.  Tuy nhiên, nếu để ý đến qui luật thuận nghịch trong cách an sao Tử Vi đã trình bày ở đồ hình chỉ dẫn H22 thì chúng sẽ nhận ra là những cục số không phải chỉ có số mà chúng còn có thuộc tính âm dương kèm theo [âm chẳng, dương lẽ; âm xoay ngược kim đồng hồ,  dương xoay thuận; âm lùi, dương tiến].  Nói một cách khác, những con số của Tử Vi Cục không phải chỉ là một chuỗi số 6,5, 4, 3, 2 mà là chuỗi số âm dương -6, -4, -2, +5, +3.  Sự có mặt của thuộc tính âm dương này bên cạnh những con số của Tử Vi Cục đã làm cho khả năng xác quyết rằng những cục số là những độ số của Hà Đồ trở nên có cơ sở.         
 
Chúng ta có thể nhìn vấn đề từ một góc độ khác.  Như đã chứng minh rồi, 60 cục hành của Tử Vi Cục [5 nhóm Can của năm sinh phối với 12 cung an Mệnh] cũng chính là 60 hành nạp âm trong bảng Lục Thập Hoa Giáp.  Mà trên cơ sở của Việt Dịch thì: ngũ hành cùng với độ số Hà Đồ và với phương hướng . . . “bất khả ly.”  Nói một cách khác:
  • Thủy phải đi chung với độ số +1 -6 và hướng Bắc
  • Mộc phải đi chung với +3 -8 và hướng Đông
  • Hỏa phải đi chung với +7 -2 và hướng Nam
  • Kim phải đi chung với +9 -4 và hướng Tây
  • Thổ phải đi chung với + 5 -10 và trung tâm điểm của 4 hướng.

Một khi hành và độ số bất khả ly thì “ngũ hành nạp âm” hay “ngũ hành nạp độ số” cũng là như nhau.  Điểm này rất quan trọng vì không những có giúp giải mã bí ẩn của Tử Vi Cục mà còn củng cố cho lý thuyết của Việt Dịch với các thuộc tính nhất quán, xuyên suốt, bao trùm. 

Với Việt Dịch, 5 hành không phải là 5 loại vật chất.  Với Việt Dịch, 5 hành là 5 thiên thể dùng để định vị trên mặt đất.  Vì vậy nên mới có cái gọi là Hà Đồ [là bản đồ (Đồ) để trả lời câu hỏi (Hà) về bất cứ phương vị nào].  Tất cả những thông tin khác đều từ trên căn bản này.  Mà đã là 5 thiên thể dùng để định vị thì môn Tử Vi có dùng chúng để định vị sao Tử Vi trên địa bàn của lá số trong tương quan với mặt đất cũng không phải là điều phi lý.  [Chúng ta chưa cần phải phối kiểm cách tính của người xưa để xem nó chính xác tới mức độ nào so với thực tế vận hành của những thiên thể.  Công việc đó hãy để dành cho những nhà khoa học có hứng thú với Tử Vi]. 

 H24: Việt Dịch Đồ

 
Thêm vào đó, nhìn vào những độ số -6, -4, -2, +5, +3 nằm ở vòng ngoài của Việt Dịch Đồ, vòng địa bàn, chúng ta thấy:
·        độ số -6 nằm hướng chính Bắc của địa bàn;
·        độ số -4 nằm hướng chính Tây của địa bàn;
·        độ số -2 nằm hướng chính Nam của địa bàn;
·        độ số +5 nằm ở trung tâm của bốn hướng; và
·        độ số +3 nằm tại cung Dần.

Dần là vị trí “kiến Đẩu Cương” của chòm sao Bắc Đẩu trong Tiểu Hùng Tọa [Ursa Minor] ở tháng Giêng của lịch pháp, là chỗ khởi tháng sinh của Tử Vi, là mốc liên kết giữa LTHG với Ngũ Hổ Độn và hành cục của Tử Vi, là nơi ngày sinh trùng cục số, và . . . có thể đoán ra là tại đó mọi tính toán về sự vận hành của các vì sao được qui chiếu [tương tự như là “registration mark” của một cổ máy phức hợp chứa nhiều trục chuyển động tròn điều chỉnh độc lập nhưng trùng khớp với nhau khi cổ máy vận hành.]  Ba hướng chính Bắc, chính Tây, chính Nam cộng một điểm trung tâm là vừa trọn đủ để xác định mọi phương hướng.  Xem ra những cục số -6, -4, -2, +5, +3 của Tử Vi Cục được chọn [thay vì những cục số +1, +9, +7, -10, -8] cũng không phải là ngẫu nhiên hoặc tùy tiện.

Bây giờ chúng ta quay lại với LTHG và thay vì “nạp âm ngũ hành” chúng ta hãy thử “nạp âm độ số” để xem kết quả ra sao.   Khi nói nạp âm độ số là tác giả muốn nói tới tiến trình nạp âm mà trong tiến trình đó tất cả qui luật nạp âm đều được sử dụng như là nạp âm cho ngũ hành [chứ không phải cứ “thấy mặt đặt tên” như là thấy Kim thì ghép -4 +9 vào bên cạnh.]

Và chúng ta có được bảng kết quả sau khi nạp độ số.  Đặt bảng độ số nạp âm nằm cạnh ngũ hành nạp âm của bảng LTHG, như trong hình H29.

 H29: Bảng LTHG Với Độ Số Nạp Âm Nằm Cạnh Ngũ Hành Nạp Âm


Rồi đem đối chiếu hai cột “Ngũ Hành Nạp Âm” [cột 5 tính từ bìa trái] với cột “Độ Số Nạp Âm” [cột 6] chúng ta có thể tổng kết như sau:
  • tất cả hành Hỏa đều đi chung với -2 [+7];
  • tất cả hành Thổ đều đi chung với +5 [-10];
  • tất cả hành Kim đều đi chung với -4 [+9];
  • tất cả hành Mộc đều đi chung với +3 [-8]; và
  • tất cả hành Thủy đều đi chung với -6 [+1].

Kết quả này cho thấy quá rõ là cục hành và cục số của Tử Vi Cục phải là thế này:
  • Thủy + Lục Cục
  • Thổ + Ngũ Cục
  • Kim + Tứ Cục
  • Mộc + Tam Cục
  • Hỏa + Nhị Cục

Như vậy thì, như học giả NVTA đã nhận xét, sách Tử Vi hiện hành đã có sự sai lạc.  Ông đề nghị đổi Thủy Nhị Cục thành là Thủy Lục Cục và Hỏa Lục Cục thành là Hỏa Nhị Cục.  Tác giả đồng ý với ông về đề nghị sửa sai.  Tuy nhiên, cách thức san định lại thì lại hoàn toàn khác với những gì học giả NVTA đã phác họa.  

Học giả NVTA đã đề nghị hoán vị hai hành Thủy-Hoả cho nhau dựa trên luận cứ chủ quan cho rằng thứ tự ngũ hành nạp âm trong LTHG là không đúng.  Nhưng luận cứ của ông đã sai từ nền móng, như tác giả đã vạch ra cho thấy trong bài Giải Mã Bí Ẩn Lục Thập Hoa Giáp, cho nên không thể dựa vào đó để sửa sai theo cách của ông dầu rằng nó có cho ra kết quả mong muốn: Hỏa Nhị Cục và Thủy Lục Cục.  Vì, cũng trong bài viết đó, tác giả đã chứng minh và đưa ra nhận xét là ngũ hành nạp âm trong LTHG hoàn toàn chính xác và có giá trị rất cao.  Mà toàn bộ cục hành của Tử Vi thì không hai không khác với toàn bộ ngũ hành nạp âm của LTHG, như đã được chứng minh ở phần trên trong bài viết này.  Cho nên, những cục hành của Tử Vi không sai. Và vì thế: không có cơ sở để hoán vị hai hành Thủy-Hoả với nhau.  Chỉ có cục số của Tử Vi là bị sai [và tác giả chỉ dám nói là sai với điều kiện cục số của Tử Vi thực sự là đến từ độ số của Hà Đồ].  Nói cho chính xác hơn là chỉ có cục số của hành Thủy và cục số của hành Hỏa là bị sai.  Cho nên, cái cần được san định lại là cục số của Thủy và Hoả.  Nhìn lại nội dung của H29 sẽ giúp cho chúng ta thấy vấn đề rõ hơn.  

Nói tóm lại, trong vấn đề sửa sai, “hành” của Tử Vi Cục không bị sai.  Chỉ có “số” của Tử Vi Cục [liên quan đến hai hành Thủy và Hỏa] bị sai mà thôi.  Những gì liên quan tới cục hành thì giữ nguyên.  Những gì liên quan tới cục số của hai hành Thủy-Hỏa thì cần san định lại.  Tức là: thấy Thủy Nhị Cục thì đổi Nhị Cục thành Lục Cục [Thủy giậm chân tại chỗ] và Thấy Hỏa Lục Cục thì đổi Lục Cục thành Nhị Cục [Hỏa giậm chân tại chỗ].  Chỉ đơn giản như vậy.

Tuy là đơn giản, nhưng hệ quả của sự san định lại thì không đơn giản.  Trước hết một loạt điều chỉnh cần phải thực hiện cho những bảng chỉ dẫn, những đồ hình chỉ dẫn, những ma trận chỉ dẫn, vân vân.  Thí dụ như chỉ trong phạm vi của bài viết này là:
  • những bảng chỉ dẫn tìm cục hành và cục số của VĐTTL [H17A], sau khi điều chỉnh sẽ giống như H30;
  • bảng chỉ dẫn vị trí an sao Tử Vi cho mạng Hỏa Lục Cục [H20A], sau khi điều chỉnh sẽ thành bảng chỉ dẫn vị trí an sao Tử Vi cho mạng Hoả Nhị Cục, H31A;
  • bảng chỉ dẫn vị trí an sao Tử Vi cho mạng Thủy Nhị Cục [H20E], sau khi điều chỉnh sẽ  thành bảng chỉ dẫn vị trí an sao Tử Vi cho mạng Thủy Lục Cục, H31B;
  • những bảng chỉ dẫn an sao Tử Vi của VĐTTL [H21], sau khi điều chỉnh sẽ giống như H32;
  • đồ hình chỉ dẫn an sao Tử Vi (H22], sau khi điều chỉnh sẽ giống như H33.



H30: Bảng Chỉ Dẫn Tìm Cục Hành & Cục Số (Đã Sửa Sai)

 H31A: Vị Trí An Sao Tử Vi Cho Hỏa Nhị Cục (Đã Sửa Sai)

 H31B: Vị Trí An Sao Tử Vi Cho Thủy Lục Cục (Đã Sửa Sai)

 H32: Bảng Chỉ Dẫn An Sao Tử Vi (Đã Sửa Sai)


H33: Đồ Hình Chỉ Dẫn An Sao Tử Vi (Đã Sa Sai)

 
Và sau đó cần có sự điều chỉnh lại cách luận giải liên quan đến yếu tố ngũ hành.  Điều này mới thực sự khó khăn.  Và dĩ nhiên những điều vừa nói chỉ là đề nghị “nếu như có sự san định lại.”

Như vậy thì, trở lại vấn đề chính, rõ ràng là các cục hành của Tử Vi Cục không có vấn đề gì cả do đó không cần có sự hoán vị giữa hai hành Thủy-Hỏa như là học giả NVTA đã đề nghị.  Thực ra thì chỉ có hai cục số -2 và -6 là cần được hoán vị cho nhau.  Sự thật này có nghĩa là gì?  Tác giả thực lòng xin lỗi học giả NVTA để phải nói rằng: nó có nghĩa là toàn bộ lý luận và sự sáng tạo của ông cho cái gọi là Lạc Việt Hoa Giáp không có cơ sở để tồn tại, và theo đó có thể nói là Lạc Việt Độn Toán của ông được xây dựng trên “nền đất không có chân.” 

Dưới lăng kính của Việt Dịch thì vấn đề Tử Vi Cục không còn là điều bí ẩn.  Ngay cả Lạc Việt Hoa Giáp và Lạc Việt Độn Toán cũng phơi bày. 

Và qua tiến trình giải mã vừa rồi, chúng ta không nhìn thấy bóng dáng của ngũ hành phổ cập.  Bởi vì ngũ hành của Tử Vi Cục thực ra chỉ là ngũ hành nạp âm của LTHG.   Mà LTHG thì được kiến tạo trên nền móng của ngũ hành nguyên thủy.  Mà lý thuyết của ngũ hành nguyên thủy thì khác xa với lý thuyết của ngũ hành phổ cập.  Những cố gắng vận dụng hai qui luật sinh khắc của ngũ hành phổ cập để giải thích cấu trúc của Tử Vi Cục và những “bí ẩn” khác trong Tử Vi chỉ là những nỗ lực vô ích và vô vọng.     

Thêm một lần nữa chúng ta thấy cấu trúc của Tử Vi không được kiến tạo trên nền tảng của lý thuyết ngũ hành phổ cập.  Nó được kiến tạo trên nền tảng của lý thuyết ngũ hành nguyên thủy, như đã được trình bày trong Việt Dịch.  Nói một cách khác, lý ngũ hành phổ cập không đủ khả năng để giải thích những vấn đề liên quan đến ngũ hành.  Lý thuyết ngũ hành mà không thể giải thích được những vấn đề liên quan đến ngũ hành thì thử hỏi không cho là “một thất bại thảm hại” thì cho nó là gì?