Hà Hưng Quốc
Trong những bài viết trước chúng ta đã nói qua
về nguồn gốc và ý nghĩa nguyên thủy của Tuần Trung Không Vong và Triệt Lộ Không
Vong. Hôm nay chúng ta sẽ nói về Tuần
Triệt trong bộ môn Tử Vi.
Như đã từng trình bày rồi, ý nghĩa rốt ráo và
vai trò của Tuần Triệt trong một lá số có thể chốt lại trong hai câu: Tuần án
ngữ thì ngoài không thể xâm nhập vào trong. Triệt án ngữ thì trong không thể lọt
ra ngoài.
Nếu bạn không biết tóm lược trên từ đâu mà có
thì có nghĩa là bạn chưa có cơ hội đọc qua những bài viết trước. Như vậy thì xin bạn vui lòng đọc bài Tuần Trung Không Vong: Nguồn Gốc Và Ý
Nghĩa và bài Triệt Lộ Không
Vong: Nguồn Gốc Và Ý Nghĩa rồi hãy quay lại để đọc tiếp bài này.
Tuần Triệt án ngữ ở một cung trong một lá số Tử
Vi chỉ có 3 trường hợp:
1. Triệt án ngữ.
2. Tuần án ngữ.
3. Tuần Triệt cùng án ngữ.
Triệt Không án ngữ ở cung nào trên lá số sẽ tùy
thuộc vào Thiên Can năm sinh của đương số.
Năm sinh thuộc:
· Giáp,
Kỷ thì Triệt Không án ngữ hai cung Thân và Dậu;
· Ất,
Canh thì Triệt Không án ngữ hai cung Ngọ và Mùi;
· Bính,
Tân thì Triệt Không án ngữ tại hai cung Thìn và Tỵ;
· Đinh,
Nhâm thì Triệt Không án ngữ tại hai cung Dần và Mão;
· Mậu,
Quý thì Triệt Không án ngữ tại hai cung Tí và Sửu.
Tuần Không án ngữ ở cung nào trên lá số sẽ tùy
thuộc vào năm sinh của đương số thuộc vào tuần giáp nào. Nếu là:
·
tuần
Giáp Tí thì Tuần Không án ngữ tại Tuất và Hợi;
·
tuần
Giáp Dần thì Tuần Không án ngữ tại Tí và Sửu;
·
tuần
Giáp Thìn thì Tuần Không án ngữ tại Dần và Mão;
·
tuần
Giáp Ngọ thì Tuần Không án ngữ tại Thìn và Tỵ;
·
tuần
Giáp Tuất thì Tuần Không án ngữ tại Thân và Dậu.
Tuần Không không bao giờ án ngữ tại hai vị trí
Ngọ và Mùi.
Cụ thể hơn thì 10 tuổi:
· Giáp
Tí, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Canh Ngọ, Tân Mùi, Nhâm Thân,
Quý Dậu thuộc tuần Giáp Tí cho nên Tuần Không sẽ án ngữ tại Tuất và Hợi.
· Giáp
Dần, Ất Mão, Bính Thìn, Đinh Tỵ, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất,
Quý Hợi thuộc tuần Giáp Dần cho nên Tuần Không sẽ án ngữ tại Tí và Sửu.
· Giáp
Thìn, Ất Tỵ, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi, Nhâm Tí,
Quý Sửu thuộc tuần Giáp Thìn cho nên Tuần Không sẽ án ngữ tại Dần và Mão.
· Giáp
Ngọ, Ất Mùi, Bính Thân, Đinh Dậu, Mậu Tuất, Kỷ Hợi, Canh Tí, Tân Sửu, Nhâm Dần,
Quý Mão thuộc tuần Giáp Ngọ cho nên Tuần Không sẽ án ngữ tại Thìn và Tỵ.
· Giáp
Tuất, Ất Hợi, Bính Tí, Đinh Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Canh Thìn, Tân Tỵ, Nhâm Ngọ,
Quý Mùi thuộc tuần Giáp Tuất cho nên Tuần Không sẽ án ngữ tại Thân và Dậu.
Có người cho rằng Tuần Triệt là sao. Thí dụ
như trong bài Số Mệnh Hỏi Đáp: Ảnh Hưởng
Sao Tuần Triệt đăng trên Việt Báo Online 09/06/2002 Tử Vi Thiên Đức Đốc
Nguyễn đã viết " . . . những vấn đề
xung quanh hai sao Tuần, Triệt. Thật vậy hai sao này có nhiều tranh cải và mâu
thuẫn từ ý nghĩa bản thân của chúng thậm chí cho đến phạm vi tác dụng của hai
sao này. . ."
Xét nguồn gốc của Tuần Triệt, định kiến cho rằng
Tuần Triệt là sao thì không thể đúng. KHHB Xuân Ất Mão (1975) cũng có viết ". . . Tuần,Triệt không phải là một sao
như các sao. Nó chỉ là dữ kiện Âm Dương, tiểu biểu cho sự đóng mở hai giai đoạn
Âm và Dương. . . Ở đây Tuần Triệt chi phối về hai phương diện. Ta có thể tạm đặt
là: đối ngoại và đối nội."
Nguồn gốc của Tuần Triệt phối hợp với Việt Dịch
Đồ để diễn giải cho phép chúng ta chấp nhận giải thích trên đăng trong báo
KHHB. Tuy nhiên "dữ kiện âm
dương" + "sự đóng mở" vẫn còn nặng dịch lý và khó hiểu với một số
người. Để cho dễ nắm bắt hơn, phải nói rằng
Tuần Triệt thực ra chỉ là hai "định chế" áp đặt lên cung nó án ngữ. Nếu bản cung là thành, các sao trong cung là
cư dân, thì Tuần Triệt là định chế ra vào thành. Tuần cho phép cư dân trong thành đi ra ngoài
mà không cho phép bên ngoài xâm nhập vào thành.
Triệt không cho phép cư dân đi ra ngoài nhưng cho phép bên ngoài vào
thành. Tuần chống xâm nhập. Triệt chống
tiết lộ. So sánh đơn giản cho dễ nhớ dễ
hiểu thì Tuần Triệt chỉ là vậy. Tuần Triệt
không phải là sao. Đã không phải là sao
thì Tuần Triệt không thể xung chiếu như sao và vì vậy tất cả các luận bàn về ảnh
hưởng do Tuần Triệt chiếu xung rõ ràng là không hợp lý.
Và cũng chính vì định chế áp đặt lên cung bị
án ngữ mà sự tương tác giữa các sao bên trong bản cung với các sao bên ngoài bản
cung sẽ thay đổi bởi điều kiện áp đặt. Theo đó, ảnh hưởng tốt xấu trong sự tương tác
của các sao nằm bên trong cung bị án ngữ cũng như nằm ở bên trong các cung xung
hợp với cung bị án ngữ cũng sẽ thay đổi.
Dễ lầm tưởng là Tuần Triệt trực tiếp tạo ra ảnh hưởng tốt xấu lên các
sao nằm bên trong cung bị án ngữ cũng như các sao nằm bên trong các cung xung hợp
với cung bị án ngữ cho nên nhiều người đã coi Tuần Triệt như sao (thủ, chiếu) nhưng
sự thật không phải là vậy. Cũng dễ lầm
tưởng là Tuần Triệt trực tiếp làm thay đổi tính chất tốt xấu của các sao hoặc
thay đổi cường độ của tính chất tốt xấu nhưng sự thật không phải là vậy. Chỉ có sự tương tác giữa các sao nội và ngoại
bị thay đổi do định chế áp đặt lên cung bị án ngữ.
Giả dụ
như cung A có Mã và cung B hợp xung (hợp xung = hợp hoặc xung = tam phương tứ
chính) có Lộc. Không có Tuần Triệt án ngữ
ở cung A hay cung B thì cả cung A lẫn cung B đều ăn được cách Lộc Mã giao trì. Nếu Triệt án ngữ tại cung A thì chỉ có cung A
ăn được cách Lộc Mã. Lý do là Lộc ở cung
B có thể hội với Mã tại cung A, nên thành cách, nhưng ngược lại Mã không thể
thoát ra khỏi bản cung để hội với Lộc tại cung B, nên không thành cách, vì định
chế tại cung A là "Triệt = nội bất xuất". Triệt lộ không vong là như thế. Triệt cắt đường
là như thế, chỉ cắt đường của các sao nằm
trong cung A bị án ngữ.
Nếu Tuần án ngữ tại cung A thì chỉ có cung B
ăn được cách Lộc Mã. Lý do Mã tại bản
cung được phép ra khỏi bản cung để hội với Lộc tại cung B nhưng ngược lại Lộc ở cung B không
thể xâm nhập cung A để hội với Mã tại đây vì định chế tại cung A là "Tuần
= ngoại bất nhập". Người ta
nói Tuần bắt cầu là như thế, chỉ bắt cầu
cho các sao nằm trong cung A bị án ngữ.
Nếu cả hai Tuần và Triệt án ngữ tại cung A thì
cả cung A lẫn cung B đều không ăn được các Lộc Mã. Lý do Mã ở cung A bị cô lập hoàn toàn vì định
chế tại A lúc đó là "Tuần + Triệt = nội bất xuất + ngoại bất nhập".
Với những giả dụ vừa trình bày, Tuần Triệt án
ngữ cung A không làm cho Mã thành "ngựa chết" như nhiều người ngộ nhận. Tuần Triệt án ngữ chỉ là làm cho sự tương tác
giữa Lộc và Mã có thành cách hay không thành cách, nếu thành cách thì sẽ ăn vào
cung nào và không ăn vào cung nào, rồi theo đó tốt hay không tốt và tốt cho
cung nào hoặc vận nào sẽ được giải đoán.
Đa
số các thầy Tử Vi cho rằng Tuần Triệt án ngữ sẽ gây trở ngại (không tốt) cho
cung bị án ngữ. Và cũng cho rằng "[n]hìn
chung khi Tuần - Triệt đóng tại Mệnh (Thân) thì đương số là người chật vật
trong cuộc sống (hoàn cảnh sống không may mắn, công lao được hưởng không xứng
đáng...), hoặc lúc sinh ra mình cha mẹ thường làm ăn vất vả, nghèo hèn (nhất là
lá số có Tuần - Triệt liên cung tại Mệnh - Phụ Mẫu). Đồng thời đây cũng là mẫu
người lười biếng, kém thông minh, yếm thế, thiếu tự tin, không có ý chí vươn
lên trong cuộc sống... nếu không được nhiều cát tinh, văn tinh hội chiếu về Mệnh
(Thân) hóa giải." (Nguồn: vandanviet.com.
Tuần-Triệt và những dấu hỏi
(trích từ cuốn Tử Vi Kiến Giải của Đặng Xuân Xuyến, Thanh Hóa, 2009)).
Nhận
định trên không chính xác nếu không muốn nói là không phản ảnh đúng với thực tế
và sẽ dễ dàng bị loại trừ khi dùng lá số của các vị lãnh đạo để phối kiểm. Thí dụ như Bill Clinton Mệnh bị Triệt và Phúc
Đức bị Tuần, Hillary Clinton Mệnh bị Tuần và Tài Bạch bị Triệt, Condoleeza Rice
Thân bị Tuần và Phúc Đức bị Triệt, John McCain Mệnh bị Triệt và Quan Lộc bị Tuần,
Donald Rumsfeld Mệnh bị Tuần và Quan Lộc bị Triệt. Không một giải thích nào trong đoạn văn trên
đúng với các lá số của các nhân vật lừng lẫy vừa nêu tên. Thật ra, Tuần Triệt
án ngữ tại một cung tạo tác động tốt hay xấu và tốt xấu như thế nào còn tùy vào
chi tiết trong từng lá số cũng như tùy vào thực trạng bản thân của đương số.
Có người cho rằng cường độ ảnh hưởng của Tuần
Triệt thay đổi theo thời gian. "Tuần
từ từ mạnh lên" còn "Triệt
từ từ giảm xuống". Đến 30 tuổi
thì ảnh hưởng của Triệt coi như không còn.
Nhận định này không chính xác.
Hiện tượng tốt xấu hơn là thật nhưng cho rằng
nguyên nhân là do cường độ ảnh hưởng của Tuần Triệt mạnh yếu hơn sau một thời
gian thì không có cơ sở. Nếu vậy thì tại
sao những lá số có cung phu thê rất đẹp bị Triệt án ngữ làm cho mất sự tốt đẹp lại
không gãy gánh dọc đường lúc còn trẻ mà lại xảy ra vào độ tuổi quá 30 tức là
lúc mà Triệt mất hết uy lực và theo đó cung phu thê đã phục hồi lại sự tốt đẹp
vốn dĩ của nó? Nếu vậy thì tại sao những
lá số có cung phu thê rất xấu có Triệt án ngữ làm cho bớt xấu lại không bị gãy
cánh dọc đường vào độ tuổi quá 30 tức là lúc mà Triệt mất hết uy lực và theo đó
cung phu thê đã phục hồi lại sự xấu vốn dĩ của nó mà lại xảy ra vào lúc trẻ tức
là lúc Triệt còn đủ sức mạnh để đàn áp hung tinh?
Sự thật là Tuần Triệt án ngữ tại một cung áp đặt
định chế tại cung đó. Định chế không
thay đổi. Chỉ có sự tương tác giữa các
nhóm sao biến hóa theo mỗi bước chuyển dịch của mệnh kinh qua các nhóm cung
khác nhau ở mỗi giai đoạn của một đời người, với sự tiếp tay của định chế luôn
hiện hữu và không thay đổi, tạo ra ảnh hưởng xấu tốt.
Có người cho rằng Tuần Triệt gặp nhau sẽ
"cởi khóa" cho nhau. Nhận định này có phần chính xác.
Tuần Triệt gặp nhau trên 12 cung của một lá số chỉ có 5 trường hợp:
Tuần Triệt gặp nhau trên 12 cung của một lá số chỉ có 5 trường hợp:
1. Tuần Triệt cùng án ngữ một cung.
2. Tuần Triệt án ngữ ở hai cung xung nhau.
3. Tuần Triệt án ngữ ở hai cung tam hợp hoặc nhị hợp với nhau.
4. Tuần án ngữ Mệnh hoặc Thân và vận nhập cung có Triệt án ngữ.
5. Triệt án ngữ Mệnh hoặc Thân và vận nhập cung có Tuần án ngữ.
5. Triệt án ngữ Mệnh hoặc Thân và vận nhập cung có Tuần án ngữ.
Trường hợp 1,2,3: khi vận nhập cung Tuần Triệt sẽ bị triệt tiêu trong vận đó. Tức là, khi nhập vận, sẽ thấy có đủ mặt Tuần và Triệt, thì định chế "nội bất xuất" và "ngoại bất nhập" bị vô hiệu hóa.
Trường hợp 4,5: khi vận nhập cung, chỉ thấy có Triệt hoặc Tuần nhưng Mệnh hoặc Thân lại có Tuần hoặc Triệt án ngữ, thì Tuần hoặc Triệt án ngữ tại cung vận sẽ tạm thời bị vô hiệu hóa.
Có người cho rằng Tuần Triệt mang tính chất
ngũ hành. Và có tất cả 4 định kiến:
1. Tuần hành Hỏa đới Mộc, Triệt hành Kim đới
Thủy;
2. Tuần hành Thủy, Triệt hành Kim;
3. Tuần hành Thổ, Triệt hành Hỏa;
4. Tuần Triệt theo hành của bản cung chúng án
ngữ.
Tuần Triệt đã không phải là sao mà chỉ là định
chế giới hạn sự tương tác giữa các sao bên trong với các sao bên ngoài của một
cung thì khoát thêm cho chúng cái áo ngũ hành để làm gì? Chỉ vô ích và làm phức tạp thêm vấn đề.
Trong bài Mẫu
Người Mệnh Tuần Thân Triệt đăng trên blog Trần Nhật Thành ngày
07/13/2012, ông đã viết: "Tóm lại, TT là hai sao đặc biệt nhất
trong 118 sao của khoa Tử Vi, và cũng đã trở thành đề tài tranh luận rất nhiều.
Nhưng tốt nhất là tùy theo kinh nghiệm thực tiễn mà mỗi người tự chọn cho mình
một quan điểm riêng. Dù sao, khi nói đến TT, chúng ta đều thấy ảnh hưởng tốt xấu
của hai sao này trên một lá số nào đó không phải là điều đơn giản. Giống như một
người bị bệnh phải uống thuốc, như người bị chứng đau nhức phải uống thuốc giảm
đau. Nhưng khi uống thuốc giảm đau nhiều thì lại sinh ra chứng đau bao tử, uống
thuốc chữa bệnh đau bao tử nhiều thì lại sinh ra chứng bất lực.. Ảnh hưởng của
TT cũng tương tự như vậy, giúp ta bên này thì phá bên kia, và có lẽ cái thâm
sâu của khoa Tử Vi là ở chỗ đó."
Kết luận trên của TNT cho thấy hiện trạng thiếu
thống nhất trong cách lý giải Tuần Triệt của bộ môn Tử Vi, nếu không muốn nói
là loạn cào cào. Tự thân Tuần Triệt
không "giúp ta bên này thì phá bên
kia" cũng không "phức tạp" như đa số nhận lầm. Tuần Triệt chỉ
đơn giản là định chế áp đặt lên cung nó án ngữ.
Với hai định chế "nội bất xuất" và "ngoại bất nhập"
mà sự tương tác giữa các sao nằm bên trong cung bị án ngữ và các sao nằm bên
ngoài cung bị án ngữ sẽ bị giới hạn tùy theo định chế áp đặt lên cung (điều mà
tác giả của bài viết trong KHHB Ất Mão "tạm gọi là đối nội và đối ngoại")
và theo đó tốt xấu cũng biến hóa theo.
Làm cho Tuần Triệt trở thành phức tạp và mơ hồ là do những người nghiên
cứu Tử Vi tự tạo ra không phải bản chất của Tuần Triệt. Phức tạp và mơ hồ cũng không phải là cái thâm
sâu của Tử Vi mà là chỉ dấu hiệu của sự thấu đáo chưa tới chỗ cùng tột.
KINH NGHIỆM BỎ TÚI
Tiếp theo sau đây chúng ta sẽ xét nghiệm ảnh
hưởng của Tuần Triệt trong một vài lá số mà thông tin về những diễn biến trong
cuộc đời của các đương số được ghi nhận chuẩn xác với độ khả tín cao nhất. Người thật việc thật trong hiện tại chứ không
phải những nhân vật của quá khứ được vẽ vời tô điểm không một ai có thể kiểm chứng
được.
Cũng xin nhắc lại để các bạn nào vào "đọc
ngang" khỏi bở ngỡ là:
1. Cách
lấy lá số ở đây theo cục "Thủy 6" và "Hỏa 2" chứ không phải
"Hỏa 6" và Thủy 2" như tất cả sách và thầy khác sử dụng. Lý do cho sự điều chỉnh này đã được người viết
giải thích rất cặn kẻ trong sách Giải Mã Bí Ẩn Tư Vi và trong cuốn Giải Mã Bí Ẩn
Lục Thập Hoa Giáp của Hà Hưng Quốc (có posted trên blog http://vietdich.blogspot.com/p/giai-ma-bi-luc-thap-hoa-giap.html
).
2. Cách luận giải âm dương ngũ hành ở đây dựa
trên nền tảng của lý thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy và Việt Dịch của Hà Hưng Quốc (sách
có posted trên blog http://vietdich.blogspot.com/p/viet-dich.html
).
3. Người
viết sẽ không luận giải toàn bộ lá số mà chỉ luận giải một hay hai cung nào đó
thôi có liên quan đến Tuần Triệt với mục đích là để làm sáng tỏ và để chứng minh
sự chính xác về cách luận giải Tuần Triệt mà người viết đã giải thích trong bài
viết này.
CASE 1:
Lá số Case 1 là của một thân chủ còn khá trẻ
hiện đang làm việc tại California. Lá số cho thấy Triệt án ngữ tại Ngọ Mùi và Tuần
án ngữ tại Tí Sửu.
Cung Phúc Đức vô chính diệu có Triệt án ngữ nên cung này chịu định chế "nội bất xuất" vì thế các sao trong cung Phúc Đức không thể hội về với các sao tại các cung hợp xung nhưng ngược lại các sao từ các cung hợp xung thì tự do hội về với các sao trong cung Phúc Đức. Vì VCD nên hai chính tinh từ cung xung đối coi như tọa thủ Phúc Đức. Đồng Cự hãm nên phúc đức không được tốt, phải ly hương bôn ba, họ hàng ly tán và hay tranh chấp lẫn nhau, tình cảm lận đận.
Vận 24-33 nhập cung Mùi có Triệt án ngữ nhìn thấy Tuần ở cung xung đối cho nên hai định chế của Tuần Triệt bị tạm thời vô hiệu hóa. Các sao trong các cung xung hợp tự do hội tụ. Cung Mùi tam hợp Mộc cục đồng hành với bản mệnh cho nên dự đoán vận này sẽ là một giai đoạn tốt đẹp. Tốt đẹp như thế nào? Với Nhật Nguyệt vượng hội chiếu cộng thêm Khoa, Lộc, Hỷ hội về với Xương, Khúc, Hồng tại bản cung cho nên đương số sẽ có lợi về mặt học vấn, tiền bạc, hôn nhân và con cái.
Thực tế cho thấy người đàn ông có lá số này đã ly hương từ lúc 11 tuổi (1991), mẹ làm ăn xa nên ít được gần, dòng họ bên nội nghèo hèn và hay tranh chấp, tình cảm cá nhân dang dỡ nhiều lần. Trong vận 24-33 đã tốt nghiệp đại học, đã lập gia đình, có con, đã có công việc rất tốt với lương hướng trên cả trăm ngàn đô la một năm và đã giữ chức giám đốc dự án từ lúc chưa tốt nghiệp đại học.
CASE 2:
Lá số Case 2 là của một nữ thân chủ hiện đang
sống và làm việc tại California. Lá số
cho thấy Triệt án ngữ tại Dần Mão và Tuần
án ngữ tại Tí Sửu. Mệnh cách Tử, Phủ, Vũ,
Tướng, Liêm. Thân cách Sát, Phá, Tham.
Vận 4-13 tuổi nằm tại Dần tam hợp Hỏa cục
tương khắc bản mệnh Thủy cho nên là vận
xấu. Triệt án ngữ tại cung vận nên
"nội bất xuất" nhưng các sao ở những cung hợp vẫn tự do hội về
cung. Riêu, Y, Hình, Đà, Kỵ, Sát, Linh, Hỏa, Nhị Không hội họp cho
nên sẽ bị mổ xẻ để điều trị trong vận này, nhất là về đường ruột vì có Song Hao.
Vì Mệnh cũng đóng tại cung này cho nên đương số cũng sẽ bị những sao hung sát này tác hại, không chỉ trong vận 4-13 mà còn ở những vận khác trong suốt cuộc đời, trừ khi đương số nắm được đại quyền sinh sát hoặc hành nghề có liên quan đến giải phẫu, châm chít.
Vì Mệnh cũng đóng tại cung này cho nên đương số cũng sẽ bị những sao hung sát này tác hại, không chỉ trong vận 4-13 mà còn ở những vận khác trong suốt cuộc đời, trừ khi đương số nắm được đại quyền sinh sát hoặc hành nghề có liên quan đến giải phẫu, châm chít.
Thực tế cho thấy những biến cố đã xảy ra đúng
như dự đoán. Đương sự đã bị mổ ruột thừa
trong vận này và còn bị mổ khi sinh con, bị cắt túi mật, và bị bệnh tim ở những
vận khác.
Vận 14-23 tuổi nằm tại cung Sửu tam hợp Kim cục tương sinh với bản mệnh nên là vận tốt. Bản cung có Tuần án ngữ. Đúng ra thì các sao từ các cung xung hợp sẽ không hội họp được với các sao trong bản cung vì định chế "ngoại bất nhập". Nhưng ở đây Mệnh Triệt gặp vận Tuần nên định chế bị triệt tiêu, các sao tự do hội họp. Hồng, Xương, Khúc, Việt, Long, Phượng, Khoa, Ấn, Cáo, Phù, Bật hội về cung nên trong vận này đương số học giỏi, cuốn hút, có nhiều bạn bè hâm mộ. Tuy nhiên, vì có Thai, Phục, Vượng, Tướng nên e rằng trong vận 10 nằm này đương số sẽ bị vướng tình ái rồi có con không cưới hỏi, nhất là vào vận 19 tuổi (năm 2001) nhập cung Tỵ gặp Hồng Hỷ và phải bỏ học nửa chừng vì Thiên Không. Thêm vào đó cung Tử có Thai, Âm, Dương hội tụ và vận có Thai, Tả, Hữu tụ hội nên rất có thể sẽ sinh đôi và là con gái. Lại có Lưu Hà, Kiếp Sát từ cung Tử xung chiếu nên có thể lúc sinh con sẽ bị làm băng và phải mổ để lấy ra. Thêm Phá Quân hãm với Hao (hao tổn) + Hỏa, Linh (áp lực, khủng hoảng tinh thần) + Mã, Khốc, Khách nhị hợp (tiếng tăm) + Đồng, Cự hãm với Phá Toái tam hợp (bêu rêu) + Lộc Tồn, Thiên Không (không tiền) xung chiếu nên đương số sẽ thiếu thốn, cơ cực, khủng hoảng tinh thần và chịu nhiều búa riều dư luận. Đến vận 22 tuổi (năm 2004) nhập cung Dần tam hợp Hỏa cục khắc bản mệnh có Triệt án ngữ. Thân Tuần vận Triệt nên định chế tạm thời bị hóa giải và các sao tự do tụ hội về bản cung. Gặp Song Hao, Bạch Hổ (máu huyết tim mạch) + Hỏa, Linh (máu huyết, tim mạch) + Riêu Y, Thiên Hình (thuốc men, điều trị) + Vũ Kỵ (chắc chắn) + Đà, Hỏa, Không, Kiếp, Kỵ, Hình (đau yếu, tật nguyền) nên sẽ bị bệnh về máu huyết tim mạch. Mệnh Thiên Tướng có Thiên Khốc hội về là cách tình yêu nhiều nước mắt, thêm vào Hóa Kỵ thì có thêm yếu tố oán hận + Mệnh có Tướng vận có Cự thì dễ bị phản bội tình cảm + Mệnh Tướng có Triệt đứng giữa Tướng Lương là cách tiền hết tình tan cho nên trong hạn này đối tượng chắc chắn sẽ bị phản bội tình cảm, bị bỏ rơi. Lại còn có thêm Không, Kiếp, Hỏa Linh, Hình Kỵ nên trong nghịch cảnh thì tình hận biến thành tình thù và đưa đến ý nghĩ trả đũa rất nguy hiểm. Đương số cần phải biết rõ lý nhân duyên, nghiệp quả của nhà Phật để thấy rõ cuộc sống là bể ái hà mà mở lòng cởi bỏ những dính mắc nguy hiểm, tránh gây ra nghiệp quả tệ hại hơn. Nói tóm lại là một vận 10 năm đầy biến cố lớn. May mắn là cung vận 10 năm tốt, vận và mệnh đồng hành, cho nên cuối cùng mọi chuyện cũng sẽ kết thúc có hậu. Đương số có mệnh là Vũ Tướng vượng miếu (chính nghĩa) lại nằm trong tam hợp Thái Tuế (chính nghĩa) cho nên dưới áp lực nặng nề vẫn có những hành động chính nghĩa. Hành động chính nghĩa trong vận này lại là cái nhân tốt gieo trên phước điền dành cho hậu vận.
Thực tế cho thấy những biến cố đã xảy ra đúng
như như dự đoán. Đương số đã học giỏi
và được nhận vào một trường đại học có tiếng, đã có hai đứa con gái song sinh ngoài
hôn phối lúc còn đang học năm thứ hai đại học vì thế mà gãy gánh việc học nửa
đường. Năm 2001, sinh khó bị làm băng nên
phải mổ để lấy ra. Sau đó, năm 2004, lại
bị bệnh tim phải vào bệnh viện điều trị và cha của hai đứa bé đã không chịu nổi
áp lực nên đã bỏ rơi đương số một thời gian ngắn. Và đương số cũng đã chứng tỏ là một con người
rất có chính nghĩa: quyết định không phá thai và quyết định giữ con để nuôi dầu
là rất sợ hãi và vượt quá sức của một cô gái chưa kịp trưởng thành. Đương
số đã âm thầm chịu đựng và không cho ai trong gia đình biết vì sợ cha mẹ buồn lòng. Dĩ nhiên là đương số trãi qua một thời gian
ngắn đầy khó khăn vì thiếu thốn vật chất, vì kiệt sức, vì miệng tiếng của người
chung quanh. Nhưng sau khi đương số quay
về và tìm sự hổ trợ từ gia đình thì được cha mẹ và anh trai hết lòng trợ giúp
và an ủi. Cuối cùng thì đương số vượt
qua được khốn khó, có được hai đứa con thông minh và hiếu hạnh, có một gia đình
riêng rất hạnh phúc, có một gia đình lớn rất gắn bó, trở thành một người mẹ tuyệt
vời, được mọi người công nhận và khâm phục ý mạnh mẽ chí của đương số cộng với tinh thần trách nhiệm và tính nhân bản cao độ. Và đương nhiên là đương số trở thành một tấm
gương "đạo đức đúng nghĩa" để người khác nhìn vào và học theo.
CASE 3:
CASE 3:
(còn tiếp)