Friday, October 29, 2010

Việt Dịch - Hà Hưng Quốc (#18)


Bí Mật Của Đất Trời Gói Gọn Trong Hai Vế
Cốt Lõi Của Dịch Học Nằm Trong 67 Lời
trở về: Việt Dịch - bài 17

8. VIỆT DỊCH ĐỒ VÀ MINH TRIẾT CỦA DỊCH
Việt Dịch Đồ được cho là “một kết hợp trọn vẹn và kỳ ảo” là vì việc trời, việc đất, việc người đồng thể hiện.  Được cho là trọn vẹn và kỳ ảo là vì lý của trời, lý của đất, lý của người đồng thể hiện.  Được cho là trọn vẹn và kỳ ảo là vì lý sự của cá nhân, lý sự của tập thể, lý sự của nhân loại đồng thể hiện.  Được cho là trọn vẹn và kỳ ảo là vì lý sự vô hình, lý sự hữu hình, lý sự qui ước đồng thể hiện.  Được cho là trọn vẹn và kỳ ảo là vì nó hàm chứa minh triết của đông phương.  Được cho là trọn vẹn và kỳ ảo là vì nó vạch ra phạm trù đồng quy và hiệp nhất của các giáo lý đông tây. 
Với hình học, chúng ta biết những vòng tròn đồng tâm O thì chỉ có một tâm điểm O ở giữa.  Rời khỏi tâm điểm O đi dần ra ngoài thì có vô lượng vòng tròn bán kính r=n, từ số dương n>0 tiến tới số dương cực lớn và mỗi vòng tròn cũng có vô số điểm nằm trên vòng tròn đó.  Một điểm của tâm O thì không xê dịch nhưng một điểm ngoài tâm O thì có thể chuyển động trên quỷ đạo gọi là vòng tròn và cứ mỗi một vòng tròn thì gồm vô lượng điểm cách tâm O một khoảng cách r không đổi.
Với Việt Dịch Đồ, tâm trung là Thổ của Ngũ Hành, là Mậu Kỷ của Thiên Can, là Thái Cực của Bát Quái.  Vòng ngoài là chỗ của Kim, Mộc, Thủy, Hỏa tương tác; là chỗ của Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài thể hiện, là chỗ của Âm, Dương chuyển dịch; là chỗ của Giáp, Ất, Bính, Đinh, Canh, Tân, Nhâm, Quí chia vạch thời không.         
Việt Dịch Đồ dưới lăng kính minh triết, thì vòng ngoài là chỗ của nhiều còn tâm trung là nơi của một.  Vòng ngoài là trú xứ của sinh sinh hoá hóa còn tâm trung là trú xứ của diệu diệu huyền huyền.  Từ tâm đi ra ngoài là hướng ngoại, từ ngoài trở về tâm là hướng nội.  Từ tâm đi ra ngoài là con đường của nhơn dục còn từ ngoài trở về tâm là con đường của thiên lý. Hướng ngoại để có nhiều, hướng nội để giữ một.  Theo nhiều là lý do của điên đảo, quay cuồng.  Giữ một là cái gốc của thường tịnh lặng lẽ.  Tâm trung là đền thánh của nhơn sanh, tiến vào đền thánh lễ bái không ngoài một chữ Tín của đức Thổ.  Vòng ngoài là nhà lửa của tam giới, lìa bỏ đền thánh để chui vào nhà lửa vui đùa không ngoài một chữ dục của vọng ý. 
Việt Dịch Đồ dưới lăng kính minh triết, tâm trung là chỗ để giữ đạo tam tòng: tòng thiên, tòng địa và tòng nhân.  Vòng ngoài là chỗ để giới trì tứ đức: đức Nhân của Mộc, đức Nghĩa của Kim, đức Trí của Thủy, đức Lễ của Hỏa.  Thế nào là giữ đạo tam tòng?  Trời vốn “dĩ dị tri” đất vốn “dĩ giản năng.”  Mà giản dị thì “dị tắc dị tri, giản tắc dị tòng[1] dễ biết dễ theo.  Một khi đã dễ biết dễ theo thì có lắm người biết nhiều người theo do đó mà thành tựu công nghiệp lớn “dị tri tắc hữu thân, dị tòng tắc hữu công, hữu thân tắc khả cửu, hữu công tắc khả đại, khả cửu tắc hiền nhân chi đức, khả đại tắc hiền nhân chi nghiệp.”[2]  Nắm được đạo lý giản dị là nắm được đạo lý trong thiên hạ.  Đã nắm được đạo lý trong thiên hạ thì đứng giữa cùng với trời và đất “dị giản nhi thiên hạ chi lí đắc hĩ, thiên hạ chi lý đắc nhi thành vị hồ kì trung hĩ.”[3]  Đứng chung được với trời đất tức là đã giữ đạo tam tòng.  Thế nào là giới trì tứ đức?  Trời đất không có tư tâm, thánh nhân không có tư tâm, cho nên mới nói trời đất bất nhân coi vạn vật như chó rơm, thánh nhân bất nhân coi bá tánh như chó rơm, “thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu, thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu.”[4]  Trời đất hành sự chẳng vì mình cũng chẳng vì ai.  Thánh nhân hành sự chẳng vì mình cũng chẳng vì ai.  Hành sự chẳng vì mình cũng chẳng vì ai chánh thật là giới trì.  Ở giữa thiên hạ, lấy thiên hạ làm lòng mình, coi hết thảy như trẻ thơ, “tại thiên hạ, hấp hấp vị thiên hạ hỗn kỳ tâm, thánh nhân dai hài nhi,”[5] đó chánh thật là đức nhân.  Lấy đạo giúp cho người lãnh đạo, không lấy bạo quyền cưỡng bức thiên hạ, “dĩ đạo tá nhân chủ dả, bất dĩ binh cường thiên hạ,” giữ cái vô danh mộc mạc để trí vô dục, tâm yên tịnh, thiên hạ được bình yên “dĩ vô danh chi phác, vô danh chi phác phù diệc tương vô dục, bất dục chi tỉnh, thiên hạ tương tự định,”[6] đó mới chánh thật là đức nghĩa.  Không can thiệp dân sẽ tự nhiên vô tư, không áp bức dân sẽ tự nhiên ngay thẳng, không bày vẽ dân sẽ tự nhiên giàu có, không tham lam dân sẽ tự nhiên thật thà, “ngã vô vi nhi dân tự hóa, ngã hiếu tĩnh nhi dân tự chính, ngã vô sự nghi dân tự phú, ngã vô dục nhi dân tự phác,”[7] cho nên lấy ngay thẳng mà trị quốc, lấy vô sự mà giữ yên thiên hạ, “dĩ chính trị quốc . . . dĩ vô sự thủ thiên hạ,”[8] giúp dân từ bỏ cái quá độ để quay về với tự nhiên, “phục chúng nhân chi sở quá, dĩ phụ vạn vật chi tự nhiên,”[9] lấy thấp làm nền, lấy hèn là gốc “dĩ tiện vi bản, dĩ hạ vi cơ” để ngồi trên mà dân không thấy nặng, ở trước mà dân không thấy ngại, “xử thượng nhi dân bất trọng, xử tiền nhi dân bất hại,”[10] đó mới chánh thật là đức lễ.  Biết đủ không nhục, biết ngừng không nguy, được cái lâu bền, “tri túc bất nhục, tri chỉ bất đải, khả dĩ trường cửu,”[11] làm trọn vẹn mà dường như dở dang nhưng dùng mãi chẳng hư, có đầy đủ mà dường như trống rỗng nhưng dùng mãi không hết, rất ngay thẳng mà như cong, rất hay mà như dở, rất hùng biện mà như ấp úng, “đại thành nhược khuyết kỳ dung bất lệ, đại doanh nhược xung kỳ dụng bất cùng, đại trực nhược khuất, đại xảo nhược chuyết, đại biện nhược nột,”[12]  không ra cửa mà biết khắp thiên hạ, thấy rõ đạo trời, “bất xuất hạ tri thiên hạ, bất khuy dũ kiến thiên đạo,”[13] quay về gốc tịnh, phục mệnh thường hằng, “chí hư cực . . . phục mệnh viết hằng,”[14] đó mới chánh thật là đức trí.  Ở chỗ điên đảo, quay cuồng mà vẫn ung dung tự tại là nhờ trong không xa đạo tam tòng ngoài không lìa giới trì tứ đức.  Giữ đạo tam tòng, giới trì tứ đức là cung cách của hiền thánh.          
Việt Dịch Đồ dưới lăng kính minh triết, tâm trung là trái tim nguyên thể và vô nhiễm.  Vòng ngoài là nơi đã làm cho máu của Đức Chúa chảy ra.  Ngài “có khả năng chuyển hóa, đem tù hãm tối tăm, đốt tan trong ánh sáng, những nghiêng lệch tạm thời, bỗng chốc về đúng chỗ, trời người đất dung thông, thế giới hoát đại đồng, thiêng liêng và huyền nhiệm[15] là vì tâm nội chưa từng lìa nguyên thể và vô nhiễm, thân ngoại chưa từng lìa tôn nghiêm và hiền thiện.  Ở chỗ ác trược tối tăm mà vẫn nguyên thể và vô nhiễm, vẫn tôn nghiêm và hiền thiện là phẩm hạnh của đấng chúa thánh thần.    
Việt Dịch Đồ dưới lăng kính minh triết, tâm trung là chỗ vô chấp, vô cầu, vô sinh, vô diệt, bất đồng, bất dị.  Vòng ngoài là chỗ không thực tánh thực tướng, của chấp trước, của trùng trùng duyên khởi, của huyễn hóa, của vô minh, của sinh diệt, của biển nghiệp lực.   Tâm trung là thế giới của “diệu trạm tổng trì bất động tôn,”[16] là đại viên cảnh trí, là đương xứ tức chân, là tuyệt thánh khí trí, là bất động hiện quán, là bản lai diện mục, là sanditthiko, là akàliko, là opanayiko.  Vòng ngoài là thế giới “như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điển,”[17] là “hoa đốm giữa hư không,”[18] là lý trí vọng thức, là chỗ “gate, gate, paragate, parasamgate,”[19]  là khổ đế và tập đế.  Tâm trung là nhà của như lai. Vòng ngoài là chỗ hiển bày vạn pháp.  Thường tịnh thường lặng ngay giữa chốn điên đảo quay cuồng là vì tâm nội chưa từng lìa nhà Như Lai, thân ngoại chưa từng lìa Pháp Giới; là vì vốn thấy rõ tất cả pháp đều huyễn hóa nên lìa tâm thức phân biệt chẳng thấy bốn tướng “nhân, ngã, chúng sanh, thọ giả,” chẳng thương, chẳng ghét; là vì vốn thấy rõ mọi hiện tượng thế gian đều “không thêm, không bớt, không dơ, không sạch[20] nên chẳng lìa “bình đẳng tánh trí,” chẳng buông bỏ gì, chẳng nắm giữ gì, chẳng đến, chẳng đi; là vì vốn thấy rõ “thế gian như chiêm bao mà khởi lòng đại bi[21] nên chẳng lìa thực tại hiện tiền, trong huyễn cảnh hiện huyễn thân dụng huyễn pháp nương huyễn phương tiện cứu độ huyễn chúng sanh, tùy duyên bất biến.  Giữa thế gian mà không bị những cái khổ của thế gian trói buộc chính là tự tại của Bồ Tát.    
Việt Dịch Đồ dưới lăng kính minh triết, tâm trung là Đạo, vòng ngoài là Danh.  Danh là chỗ của có không.  Không là tên gọi lúc khởi đầu trời đất, là “vô, danh thiên địa chi thủy.”[22] Có là tên gọi lúc nảy sinh, là “hữu, danh vạn vật chi mẫu.”[23]  Thánh nhân lấy cái không để chiêm ngưỡng sự kỳ diệu, lấy cái có để xem xét sự tinh vi, “cố thường vô dục dĩ quan kỳ diệu, thường hữu dục dĩ quan kỳ hiếu.[24] Có không cùng hiện hữu.  Thánh nhân không thiên vị.  Theo đạo tự nhiên nên không cố làm, dạy đạo tự nhiên nên không cố nói, cùng một thể với đạo, “xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo.”[25]  Ở chỗ có không thánh nhân làm khe nước cho người khát, thành việc mà không kể công, thành công mà không ở lại, rỗng tâm, no lòng, mềm chí, cứng xương, khiến dân không dám tham, khiến kẻ trí không dám dùng thủ đoạn, thường hay cứu người nên không bị bỏ rơi, thường hay cứu vật nên không bị vứt đi. Thân tuy ở Danh nhưng tâm thì ở Đạo.  Lòng đạo vốn trống không nên dung chứa vô cùng.         
Việt Dịch Đồ dưới lăng kính minh triết, tâm trung là đất của tiên thiên, vòng ngoài là chỗ của hậu thiên.  Tiên thiên thì tịch tịnh như nhiên, bất sanh bất diệt, hậu thiên thì luôn luôn biến dịch và có cơ biến hóa hai chiều: chiều sanh và chiều tử;”[26] tâm trung là chỗ của “Thái Cực hiện nơi cung Vô Cực, là hoa khai kiến phật; Thái Cực có hiện nơi cung Vô Cực thì Vô Cực mới thành chí huyền chí diệu,” mới là “huyền chi hựu huyền.”[27]  Tâm nội là chỗ “dùng chơn thủy giúp cho hỏa minh linh,” là nơi “để đức cương kiện hiệp với đức nhu thuận,” là chân thổ để “mậu kỷ hiệp nhau biến thành đao khuê,” là điểm để “chân trí linh tri tương hiệp, chân tình chân tánh đồng khí, cương nhu phối nhau quay về trung chánh;”[28] hợp nội ngoại chi đạo để “kiến tố” để “phục mệnh[29] chính là chỗ dụng tâm của tiên gia.   

Giữa tâm trung với vòng bên ngoài của Việt Dịch Đồ, lý sự có thể tóm lại trong một chữ “hành.”  Nó hàm chứa sự thông dung và diệu dụng.  Nó hàm chứa sự tự nhiên và vô ngại.  Nó hàm chứa một thế giới nhị nguyên trong trạng thái tương tác hài hòa.  Đó chính là Dịch.  Hiểu và sống trong sự tương tác hài hòa đó chính là nền tảng của minh triết Đông Phương. 


 9. VÀI LỜI ĐỂ KHÉP LẠI
Đến đây, thay vì tóm tắt tất cả những điểm chính đã bàn luận và tự mình viết vài lời để kết thúc tác giả xin mạn phép được mượn một vài đoạn nguyên văn của hai học giả Việt Nam, Hà Văn Thùy và Nguyễn Vũ Tuấn Anh, để khép lại bài viết.  

“Trong suốt quá trình phát triển của xã hội loài người – trừ thuyết Âm dương Ngũ hành và siêu công thức của nó là Bát quái – loài người cũng đã có những cố gắng lập nên những siêu lý thuyết, kể cả những siêu lý thuyết giải thích sự hình thành vũ trụ cho đến mọi sự vận động liên quan đến con người nhân danh Thượng đế. Nhưng tất cả đều không thuyết phục được thời gian, mặc dù những lý thuyết vũ trụ quan đó đã chiếm một không gian lịch sử. Chỉ có thuyết Âm dương Ngũ hành và siêu công thức Bát quái là tồn tại có thể nói là lâu nhất trong lịch sử nhân loại. Những ý tưởng minh chứng trong cuốn sách này, cũng chỉ là những sự khởi nguyên cho việc phục hồi một siêu lý thuyết đã mất đi những nguyên lý bản căn, chỉ còn lại những phương pháp ứng dụng. Một khoảng trống còn rất lớn vẫn ngăn cách giữa những luận thuyết căn bản vẫn chưa hoàn chỉnh với những phương pháp luận của nó trên thức tế ứng dụng trải hàng thiên niên kỷ. Để lấp khoảng trống này, chắc chắn phải có một kiến thức tổng hợp vô cùng lớn và sự cố gắng hợp tác của nhiều ngành khoa học, Mặc dù, thuyết Âm dương Ngũ hành có thể là một học thuyết khoa học hay phi khoa học; nhưng chắc chắn sự phục hồi một học thuyết tồn tại lâu nhất trong lịch sử nhân loại với sự chứng nghiệm trên thực tế trải hàng ngàn năm, sẽ mang lại một lợi ích không nhỏ cho sự tiến bộ của con người. Sự phục hồi này chỉ có thể có được, nếu bắt đầu từ những di sản văn hóa truyền thống của người Lạc Việt, chủ nhân đích thực của những giá trị căn bản thuộc nền văn minh Đông phương.  Trải qua hơn hai thiên niên kỷ thăng trầm của lịch sử, thời Hùng Vương – một giai đoạn kỳ vĩ trong lịch sử Việt Nam – đã trở thành huyền sử. Nhưng may mắn thay, những di sản văn hóa mà tổ tiên truyền lại đã hướng con cháu tìm về cội nguồn.
Viết cuốn sách này, về phía khách quan có thể coi như một giả thuyết, nhưng người viết mong được chia sẻ với bạn đọc niềm hy vọng phục hồi lại lịch sử kỳ vĩ của đất nước Văn Lang – quốc gia đầu tiên của người Lạc Việt, tổ tiên của dân tộc Việt Nam hiện nay.” 
(Nguồn: Tìm về cội nguồn kinh Dịch, Nguyễn Vũ Tuấn Anh).
“Từ chứng minh ở trên, ta có thể tin được rằng, kinh Dịch nguyên là công cụ bói toán do người Bách Việt sống từ sông Hồng, sông Mã tới Dương Tử, Hoàng Hà sáng tạo. Khoảng 2800 TCN, Phục Hy đã từ những đồ hình Bát quái lưu hành trong dân gian, sáng tạo ra Tiên thiên Bát quái. Dựa vào cái la bàn này, Ngài đã sắp xếp một cách tương đối thỏa đáng các quẻ trong mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau, trở thành sách bói toán hữu dụng. Văn Vương dựa vào những bát quái do dân gian phát hiện, đã sáng tạo nên Hậu thiên Bát quái rồi từ đây điều chỉnh vị trí các quẻ và sáng tác quái từ hào từ, đưa cuốn sách bói toán trở thành Chu Dịch. Bằng công trình san định của mình, Không Tử đã đưa Chu Dịch trở thành bộ kinh điển đứng hàng đầu trong kho tàng tri thức nhân loại.  Tuy nhiên tới nay cũng chưa thể nói kinh Dịch là tác phẩm hoàn chỉnh, không còn điều gì để bàn bạc sửa chữa. Đọc bộ Dịch do Chu Hy truyền lại, không thiếu những chỗ người đọc phải chấp nhận một cách khiên cưỡng là chỉ dấu cho thấy điều này. Dịch vốn là công cụ bói toán, vậy mà gần hai ngàn năm nay, những nhân tài xuất chúng về bói toán chỉ đếm không hết trên đầu ngón tay, cho thấy bản thân công cụ bói toán có vấn đề. Vấn đề ở đây là do người Trung Hoa chỉ có thể đạt tới Bát quái Văn Vương với 6 đối xứng. Từ Bát quái bất toàn này đã dẫn đến những thiếu sót nghiêng lệch trong việc sắp xếp các quẻ, khiến việc viết quái từ, hào từ, thập dực thiếu chính xác. . . . 
Vì vậy nên chăng, người Việt Nam nên dựa vào Bát quái Lạc Việt làm ra cuốn Dịch Việt Nam để phục vụ tốt hơn cho nhân dân, đất nước mình?
. . .
Cần đưa Dịch thành môn học trong trường phổ thông để công dân tương lai không bị mù dịch, ngu ngơ trước quy luật vận hành của Vũ trụ, đứng ngoài thành tựu văn hóa của tổ tiên.”  (Nguồn: Bàn Lại Lịch Sử Hình Thành Kinh Dịch, Hà Văn Thùy).

Xin chân thành cảm ơn quý vị học giả và tất cả đọc giả.



[1] Hán Văn trích từ Hệ Từ Truyện, Chương 1 của Kinh Dịch
[2] Hán Văn trích từ Hệ Từ Truyện, Chương 1 của Kinh Dịch
[3] Hán văn trích từ Hệ Từ Truyện, Chương 1 của Kinh Dịch
[4] Đạo Đức Kinh, Hư Dụng, Lão Tử
[5] Đạo Đức Kinh, Nhiệm Đức, Lão Tử
[6] Đạo Đức Kinh, Vi Chính, Lão Tử
[7] Đạo Đức Kinh, Thuần Phong, Lão Tử
[8] Đạo Đức Kinh, Thuần Phong, Lão Tử
[9] Đạo Đức Kinh, Thuần Phong, Lão Tử
[10] Đạo Dức Kinh, Hậu Kỷ, Lão Tử.
[11] Đạo Đức Kinh, Lập Giới, Lão Tử
[12] Đạo Đức Kinh, Hồng Đức, Lão Tử
[13] Đạo Đức Kinh, Giám Viễn, Lão Tử
[14] Đạo Đức Kinh, Quy Căn, Lão Tử
[15] Thơ của Hà Hưng Quốc
[16] Kinh Thủ Lăng Nghiêm
[17] Kinh Kim Cang
[18] Kinh Hoa Nghiêm
[19] Kinh Bát Nhã Tâm
[20] Kinh Bát Nhã Tâm
[21] Kinh Lăng Già
[22] Đ ạo Đ ức Kinh, Lão Tử
[23] Đ ạo Đ ức Kinh, Lão Tử
[24] Đ ạo Đ ức Kinh, Lão T ử
[25] Đ ạo Đ ức Kinh, Lão T ử
[26] Dịch Lý Khai Nguyên của Đức Đông Phương Lão Tổ, thánh giáo Cao Đài.
[27] Đức Lão Tử
[28] Trích thánh giáo Cao Đài.
[29] Đức Lão Tử
    




Việt Dịch - Hà Hưng Quốc (#17)

Bí Mật Của Đất Trời Gói Gọn Trong Hai Vế
Cốt Lõi Của Dịch Học Nằm Trong 67 Lời

trở về: Việt Dịch - bài 16
6. NGHI VẤN LẠC THƯ
Trong tiến trình giải bày, chúng ta đã có nói sơ qua về Lạc Thư.  Sự khác biệt giữa Hà Đồ và Lạc Thư không nhiều, chỉ đơn giản là sự hoán vị giữa cặp số 4-9 với cặp số 2-7 tức là sự hoán vị giữa hành Kim với hành Hỏa.  Nhưng vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao lại phải hoán đổi vị trí Kim với Hỏa?  Dựa trên căn bản nào để hoán vị?  Có bằng chứng nào trực tiếp hỗ trợ cho căn bản của sự hoán vị đó?  Nhìn lại nguồn gốc xuất phát của các độ số và vị trí của các vì sao, chẳng phải là “cặp số 4-9 + sao Kim + hướng Tây” không thể tách rời nhau và “cặp số 2-7 + sao Hỏa + hướng Nam” không thể tách rời nhau hay sao?  Không thể tách rời nhau bởi vì sự hiện hữu của chúng chỉ đúng trong điều kiện chúng đi chung với nhau mà thôi.  Chẳng phải là sự tách rời một phần tử nào đó [sao, hướng, độ số] ra khỏi tập hợp tức khắc sẽ phá hủy ngay cái điều kiện mà mỗi phần tử của tập hợp đã tựa trên căn bản đó để mà tiếp tục đúng [tồn tại] hay sao?  Chẳng phải là sự hoán vị đó đã xâm phạm ngay cả nguyên lý đã giúp thiết lập cấu trúc của Bát Quái, Hà Đồ và Việt Dịch Đồ hay sao?  Chẳng phải là sự hoán vị đó sẽ làm hỗn loạn và lệch lạc tính như nhất, xuyên suốt và hợp lý của 2 âm dương, 10 độ số, 8 quái, 5 hành, 10 thiên can và 12 địa chi kết hợp thành một hệ thống hoàn hảo hay sao?     
Nhưng tại sao lại phải có sự hiện hữu của Lạc Thư?  Không phải là đồ hình hậu thiên Bát Quái phối Hà Đồ đã có khả năng giải thích tất cả mọi hiện tượng sinh hoá trong đó rồi hay sao?   
Phải chăng là đã có sự lầm lẫn trong tên gọi khi người ta tách Hà Đồ ra khỏi Bát Quái để đem phối vào cửu cung rồi gọi sản phẩm mới đó là Lạc Thư,  hay nói một cách khác Lạc Thư chính là Hà Đồ phối Cửu Cung?  Hoặc là về sau nữa người ta đã gán ghép một cách khiên cưỡng lý thuyết ngũ hành phổ cập vào Hà Đồ Cửu Cung nhưng vì chỉ có thể ghép quy luật sinh vào Hà Đồ mà không giải quyết được quy luật khắc cho nên mới có chuyện hoán vị hai hành Kim Hoả của Hà Đồ để tạo ra Lạc Thư?
Hay là, hai chữ Lạc Thư nguyên thỉ rất có thể trỏ vào một sản phẩm hoàn toàn khác chứ không phải chỉ là một đồ hình biến dạng của Hà Đồ. Về sau, với sự vắng mặt hoàn toàn của sản phẩm đó trong khi tên gọi của nó tiếp tục sống mãi nên mới đưa tới chuyện nhập nhằng lầm lẫn?   
Tác giả thực sự hoài nghi về nguồn gốc và giá trị của Lạc Thư.



7.  VIỆT DỊCH ỨNG DỤNG
Việt Dịch không có lập sẵn quẻ cũng không có lập sẵn lời như Chu Dịch.  Việt Dịch chỉ dựa vào 8 quái, tượng trưng của 8 nguyên tính đại diện cho thể-dạng-tính-trạng-hành của thế giới hiện tượng nằm trong phạm trù có thể hiểu được và lý giải được.  Hay nói cho đúng hơn, Việt Dịch chỉ gom gọn trong hai đồ hình.  Một cái là Tiên Thiên Bát Quái Đồ và một cái là Việt Dịch Đồ.
Vì Việt Dịch không lập sẵn quẻ cho nên không bị đóng khung trong một số quẻ nhất định như là Chu Dịch.  Mỗi quẻ của Việt Dịch có thể lên đến 8 quái nhờ đó mà mỗi quẻ có thể chứa đựng nhiều thông tin hơn.  Theo đó, tuy không lời và nhiều biến hóa mà ý nghĩa của quẻ lại được sáng tỏ hơn.  Tùy sự ứng hiện của các quái mà cục diện được thành lập.  Tùy sự việc mà lời được vận dụng.  Tùy cục diện và lời mà lý nghĩa của quẻ được triển khai.     
Nói cho có vẻ khoa học hơn thì Tiên Thiên Bát Quái Đồ và Việt Dịch Đồ là hai mô hình có thể kích hoạt để tìm đáp án mà 8 quái của mỗi mô hình chính là 8 biến số dẫn đến đáp án.  Tùy thuộc vào lĩnh vực hoặc vấn đề truy cứu mà mô hình thích hợp được sử dụng và mỗi biến số được xác định (defined) bằng lời.  Tùy vào điều kiện có hưởng ứng hay không của mỗi biến số mà cục diện được thiết lập.  Tùy vào lời và cấu trúc đã thiết lập mà lý nghĩa của tổng thể được triển khai và dẫn đến đáp án.   
Lấy quẻ hay gieo quẻ bằng phương pháp nào không phải là chuyện quan trọng.  Theo qui ước nào cũng được miễn là lấy một trong tám quái để xác định đâu là gốc và chọn một chiều để xác định đâu là ngọn rồi xếp tất cả các “hiện quái” lên đồ hình Tiên Thiên Bát Quái Đồ hoặc Việt Dịch Đồ.  Tất cả các hiện quái kết hợp với mũi tên chỉ gốc ngọn làm nên cục diện [cấu trúc] của một quẻ.   

Giả dụ Việt Dịch Đồ được vận dụng để hỏi về tình hình quân sự giữa hai quốc gia. Ngưòi gieo quẻ chọn qui ước hiện quái đầu tiên sẽ là gốc và từ gốc đi tới ngọn theo chiều ngược kim đồng hồ.  Rồi một quẻ được gieo ra, thứ tự trước sau như sau: 0, Ly, 0, 0, 0, Chấn, 0, 0 [0 = quái không hiện].  Đem tất cả các quái hiện và không hiện đặt vào vị trí của nó trên Hậu Thiên Bát Quái trong Việt Dịch Đồ.  Ly là hiện quái đầu tiên nên nó là gốc, theo qui ước do người gieo quẻ đã chọn.  Theo chiều ngược kim đồng hồ Chấn sẽ là ngọn, cũng theo qui ước do người gieo quẻ đã chọn.  Cục diện của quẻ sẽ giống như hình H46A.  Tập hợp Q, hay quẻ Q, chính là “tùy sự ứng hiện của các quái mà cục diện được thành lập” và cũng chính là “tùy vào điều kiện có hưởng ứng hay không của mỗi biến số mà cục diện được thiết lập.”    



Vấn đề đang được truy cứu thuộc lĩnh vực quân sự cho nên một số từ vựng quân sthích hợp sẽ được chọn lọc để gắn vào mỗi quái, như trong hình H46B.  Đây chính là “tùy sự việc mà lời được vận dụng” hay “tùy thuộc vào lĩnh vực hoặc vấn đề truy cứu mà mỗi biến số được xác định bằng lời.”  Và như đã từng trình bày, tất cả từ vựng được chọn lọc để gắn vào mỗi quái đều phải “truy cập tới,” phải “quy về được,” phải “liên kết với” yếu tính tối sơ của quái đó.    


Sau khi đã có cục diện và lời, như trong hình 46B, thì việc triển khai nghĩa lý của quẻ không là việc khó.  Với giả dụ trên, đáp án sẽ được mô tả đại khái như sau:

Q: {(vũ khí, hỏa lực, chiến tranh) + (chấn động, nổ, bùng nổ)}.   Hay trình bày một cách khác là Quẻ Q: {chiến tranh [sẽ] bùng nổ}.

Thông tin [văn bản] chứa đựng trong đáp án của quẻ Q có nghĩa lý như thế nào, sâu cạn tới đâu thì tùy thuộc vào suy nghĩ của người đặt câu hỏi và cách đặt câu hỏi.  Như là một qui luật tổng quát, câu hỏi càng hẹp thì đáp án càng dễ tìm.    

Khác với Chu Dịch, lối thiếp lập quẻ của Việt Dịch sẽ không cho ra trường hợp trùng quái [hai quái giống nhau].  Và với lối cho đáp án của Việt Dịch sẽ không có lời giải thích cho từng hào của quẻ.  
Nếu là ứng dụng trong bói toán thì vấn đề “có linh hay không” không phụ thuộc vào môn bói toán, cũng không phụ thuộc vào qui ước của môn bói toán đó, cũng không phụ thuộc vào phương pháp thiết lập quẻ mà phụ thuộc vào sự tương thông tâm linh của người xin quẻ với cõi giới vô hình.  Bói toán chỉ là vận dụng một qui ước truyền thông giữa con người với chúng sinh của cõi giới vô hình để “nhờ vả.”  Họ, chúng sinh của cõi vô hình, có đáp ứng hay không và cho đáp án đúng hay sai thì không ai biết được.   Việt Dịch chỉ một trong số những phương tiện.   
Nếu là ứng dụng vào tiên đoán hoặc suy nghiệm có tính cách khoa học hay triết học thì Tiên Thiên bát Quái Đồ và Việt Dịch Đồ có nhiều triển vọng cho những khám phá lý thú.  
Triển khai ứng dụng của Việt Dịch cần rất nhiều thời gian để nghiên cứu.  Nó không phải là chủ đề của bài viết này vì vậy chúng ta nên dừng lại ở đây.



Việt Dịch - Hà Hưng Quốc (#16)


Bí Mật Của Đất Trời Gói Gọn Trong Hai Vế
Cốt Lõi Của Dịch Học Nằm Trong 67 Lời

trở về: Việt Dịch - bài 15
5. NHỮNG KHÁM PHÁ VỀ THUYẾT NGŨ HÀNH
Trong quá trình triển khai vừa qua --từ Tiên Thiên Bát Quái cho đến Hậu Thiên Bát Quái, đến Việt Dịch Đồ, đến phân bố Việt Dịch Đồ trên 9 cung, đến Lạc Thư, đến phân bố Việt Dịch Đồ trên 12 cung, và cuối cùng là những quy luật phối hợp giữa âm dương, ngũ hành, độ số, thiên can và địa chi-- chúng ta dễ dàng nhận ra tính hệ thống của toàn bộ lý giải cũng như dễ dàng nhận ra sự hợp lý của mỗi phiến lý giải.  Cũng không khó cho chúng ta nhận ra cốt lõi của toàn bộ dịch học gói gọn trong hai vế với sáu mươi bảy lời.  Và, có một điều rất thú vị là trong suốt quá trình triển khai đó chúng ta cũng không khó để nhận ra là đã không tìm thấy bằng chứng hổ trợ cho hệ thống lý thuyết ngũ hành phổ cập rất quen thuộc với chúng ta.  Nói như thế cũng chưa đúng lắm.  Có lẽ sẽ chính xác hơn nếu nói rằng trong suốt quá trình triển khai vừa qua chúng ta đã tìm thấy bằng chứng để phủ nhận lý thuyết ngũ hành phổ cập mà chúng ta quen thuộc.  
Hệ thống lý thuyết ngũ hành phổ cập được xây dựng trên cơ sở: (1) ngũ hành là 5 loại vật chất gồm kim loại, gỗ, nước, lửa, đất; (2) Năm hành này tuân thủ quy luật tương sinh gồm có Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy; (3) Đồng thời năm hành này cũng tuân thủ quy luật tương khắc gồm có Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ.  Tất cả những ứng dụng của lý thuyết ngũ hành đều xây trên nền móng “5 loại vật chất + 2 quy luật sinh khắc” này.  Rồi từ nền móng đó phát sinh ra những quy luật khác như là hình, xung, hóa, hợp. . . cùng với những lý luận và ứng dụng kèm theo.     
Có thể nói là lý thuyết ngũ hành rất phổ cập và ứng dụng của thuyết ngũ hành thâm nhập hầu hết mọi ngõ ngách của những xã hội Á Châu.  Điều này chứng tỏ nó có sức hút rất lớn đối với quần chúng.  Tuy là vậy, nhưng với suy nghĩ thực sự nghiêm túc, chúng ta không thể không nhìn thấy sự phi lý rõ rệt của lý thuyết ngũ hành phổ cập và sự tùy tiện trong ứng dụng đến mức độ khó chấp nhận.  Với tác giả,  dầu cho kho lý thuyết và ứng dụng của lý thuyết ngũ hành phổ cập có nhiều tới đâu, có biến hóa tới đâu, có diễm ảo tới đâu, có ly kỳ tới đâu, có tinh vi tới đâu đi nữa thì cũng vẫn không che dấu được sự sai lầm từ nền móng.  Đó là, thế giới này không tạo dựng bởi năm loại vật chất Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.  Thế giới này không vận hành theo quy luật Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy.  Thế giới này cũng không vận hành theo quy luật Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ.  Kho tàng lý thuyết của ngũ hành phổ cập chỉ là một toà lâu đài đẹp xây bằng hơi nước.  Ứng dụng lý thuyết ngũ hành phổ cập vào các môn tiên tri, tiên đoán thì xác suất đúng sai của chúng có chắc gì hơn được xác suất sấp ngửa của một đồng tiền rớt trên mặt bàn.  Xin lưu ý cho là tác giả không phủ nhận lý thuyết ngũ hành mà chỉ phủ nhận lý thuyết ngũ hành phổ cập đặt trên nền móng “5 vật chất + 2 quy luật sinh khắc.”         
Như vừa nói, suốt trong quá trình triển khai mật nghĩa của sáu mươi bảy lời trong hai vế chúng ta đã không tìm thấy một bằng chứng nào hỗ trợ cho thuyết ngũ hành phổ cập.  Ngược lại, trong tiến trình đưa đến Việt Dịch Đồ, vế thứ hai trong 67 lời mật ngữ là “Thiên Nhất sanh Thủy, Địa Lục thành chi, Địa Nhị sanh Hỏa, Thiên Thất thành chi, Thiên Tam sanh Mộc, Địa Bát thành chi, Địa Tứ sanh Kim, Thiên Cửu thành chi, Thiên Ngũ sanh Thổ, Địa Thập thành chi” đã được giải mã tường tận là Càn sinh Thuỷ rồi sinh Mộc, Khôn sinh Hỏa rồi sinh Kim, sau hết là sinh Thổ.  Ý nghĩa của cụm chữ màu xanh này là: xác định vị trí 5 thiên thể và chiều xoay cơ bản, mà Càn-Khôn là trục, trong tương quan giữa mặt đất và bầu trời.  Xem hình H21. 

 
Cũng từ cụm chữ màu xanh này mà quy luật vận hành cơ bản của ngũ hành được xác định là từ Thuỷ tới Mộc tới Hoả tới Kim rồi tới Thổ ở trung tâm.  Hay trình bày một cách khác là Thủy -> Mộc -> Hỏa -> Kim -> Thổ ở trung tâm
Rồi với cấu trúc 8 quái Hậu Thiên phối với 8 số của Hà Đồ cộng với sự vận hành Tiên Thiên và Hậu Thiên mà Việt Dịch Đồ xuất hiện. Với Việt Dịch Đồ, hình H27, nó không khó cho chúng ta nhận ra là toàn bộ lý thuyết ngũ hành đã nằm ẩn trong đó.  




Một trong những thể hiện quan trọng của Việt Dịch Đồ là hai dòng hành khí vận hành ngược chiều nhau, dòng hành khí nằm ở vòng bên ngoài vận hành theo chiều kim đồng hồ còn dòng hành khí nằm ở vòng bên trong vận hành ngược chiều kim đồng hồ.  Chú ý ở điểm là cả hai chiều vận hành đều là thuận hành.  Hay nói cách khác theo ngôn ngữ ngũ hành là chiều kim đồng hồ lẫn chiều ngược kim đồng hồ đều là chiều sinh.  Như vậy, với 5 hành ở 5 phương vị và với hai dòng hành khí vận hành ngược chiều nhau, lý thuyết ngũ hành nguyên thủy đã tự thể hiện đầy đủ mà không cần sự trợ giúp nào từ bên ngoài.  Gọi lý thuyết ngũ hành nằm ẩn trong Việt Dịch Đồ này là Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy.
Để giúp cho thấy rõ hơn, chúng ta có thể đơn giản hóa Việt Dịch Đồ và minh họa thành một mô hình riêng cho lý thuyết ngũ hành, trong đó hành Thổ nằm ở trung tâm còn 4 hành Thủy, Mộc, Hỏa, Kim nằm trên một vòng tròn với quy luật sinh vận hành hai chiều ngược nhau.  Chính đặc tính sinh hai chiều này nên nó được gọi là tương sinh.  Hay nói cách khác, hai hành nằm cạnh nhau thì tương sinh.  Và, suy ra, hai hành đối lập nhau thì tương khắc.  Lý thuyết ngũ hành nguyên thủy có thể tóm gọn và so sánh với lý thuyết ngũ hành phổ cập như trong hình H45.       


 Như chúng ta đã thấy, tuyệt đối không có một chút chứng cớ nào cho sự hiện hữu của lý thyết ngũ hành phổ cập.  Không thấy ngũ hành là 5 loại vật chất cũng không thấy sinh khắc theo hai quy luật của thuyết ngũ hành phổ cập. 
Nếu Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là 5 loại vật chất giống như lý thuyết ngũ hành phổ cập luôn nói tới thì tại sao không gọi chúng là ngũ chất mà lại gọi là ngũ hành?  Còn căn cứ theo từ điển Thiều Chửu thì ngũ hành là “cái để dùng, của dùng như ngày xưa gọi vàng, gỗ, đất, lửa, nước là ngũ hành金木水火土為五行 ý nói năm thứ ấy là cái người ta cần dùng hằng ngày vậy.”  Nếu đúng là như thế thì từ chỗ 5 vật dụng tối yếu cho đời sống của con người đi tới chỗ 5 vật chất tương sinh tương khắc lẫn nhau cấu tạo nên mọi thứ mọi cái như lý thuyết ngũ hành phổ cập luôn nói tới thì khoảng cách quả thật là không gần.   
Cũng căn cứ theo từ điển Thiều Chửu thì chữ hành 行 trong tiếng Hán có nghĩa là đi, là bước đi, là trải qua, là sắp tới, là biến đổi không ngừng.  Chữ hành trong những ý nghĩa “đi, bước chân đi” hoàn toàn khế hợp với lý giải ngũ hành là để chỉ phương hướng, để định vị, để làm sao đi tới nơi về tới chốn.  Chữ hành trong ý nghĩa “trải qua, sắp tới, biến đổi không ngừng” lại càng đặc biệt vì không những hoàn toàn khế hợp với lý giải ngũ hành là để chỉ phương hướng, trong đó bao gồm cả chiều xoay thuận nghịch đối với một định vị , mà còn hoàn toàn khế hợp với hành trạng của Tứ Tượng.  Chính điểm này giúp chúng ta mở ra một cánh cửa khác để nghiệm xét vấn đề Ngũ Hành: đó là sự khế hợp và không khế hợp giữa Tứ Tượng, Bát Quái với Ngũ Hành.  
Nếu lý giải thuyết ngũ hành trên căn bản Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là để chỉ 5 loại vật chất với 2 quy luật  sinh khắc theo đúng căn bản của lý thuyết ngũ hành phổ cập thì làm sao năm hành có thể phối hợp được với bốn tượng và tám quái?  Thêm vào đó, như đã nói, bằng vào kiến thức của nhân loại ngày hôm nay, rõ ràng thế giới này không cấu thành bởi 5 loại vật chất cũng không vận hành bởi hai quy luật sinh khắc như lý thuyết ngũ hành phổ cập luôn vận dụng. 
Ngược lại nếu lý giải thuyết ngũ hành trên căn bản thiên văn Thủy, Mộc, Hỏa, Kim là để chỉ 4 hướng Bắc, Đông, Nam, Tây và trung tâm là hành Thổ thì năm hành kết hợp với bốn tượng và tám quái lại là một điều hoàn toàn khả dĩ và hoàn toàn hợp lý.   Trong trường hợp này Âm Dương, Ngũ Hành, Hà Đồ, Bát Quái, Thiên Can, Địa Chi, Cửu Cung, Thập Nhị Cung không những khế hợp về mặt cấu trúc mà còn khế hợp về mặt thể hiện thế giới hiện tượng một cách dung thông gọi là Dịch Lý.  Đây là một sự kết hợp của hai vế chứa đựng trong 67 lời.  Sự kết hợp làm cho lý-sự của âm dương, ngũ hành, bát quái, độ số, thiên can, địa chi, phương hướng, mùa tiết . . .  có thể “hiển bày” vạn tượng trong một đồ hình đơn giản, Việt Dịch Đồ.  Một sự kết hợp trọn vẹn và kỳ ảo!   
Tìm trong kho tàng đạo học chúng ta cũng có không ít bằng chứng nói về ngũ hành.  Trong một bài giảng về Âm Dương Ngũ Hành Đức Đông Phương Lão Tổ đã giảng:

“Thánh Nhân ngày xưa nhìn thấy lẽ siêu xuất của vũ trụ vạn vật, vạch ra Bát Quái, tham cứu Đồ Thơ, tác thành Dịch Đạo, lưu lại cho đời tìm hiểu mối manh huyền bí của vũ trụ vạn vật. Tuy hình tướng lý thuyết bên ngoài, nhưng bên trong chứa đựng luật tắc ảo diệu biến hóa của Thái Cực Âm Dương. Người tu luyện nương vào đó để nhìn thấy sự luân động của bộ máy tối linh, nhận thấy được cái gì là chân thật, bất biến để gìn giữ, cái gì là giả tạm, sanh diệt diệt sanh trong thời gian nào đó để không bám víu.
Thiên nhất sanh thủy, Địa lục thành chi; Địa nhị sanh hỏa, Thiên thất thành chi; Thiên tam sanh Mộc, Địa bát thành chi; Địa tứ sanh kim, Thiên ngũ thành chi; Thiên ngũ sanh thổ, Địa thập thành chi. Một sanh một thành một âm một dương, một động một tịnh.

Bởi có danh có chất nên gọi là Ngũ-Hành Tiên-Thiên. Bởi có hình có tướng nên gọi là Ngũ-Hành Hậu-Thiên. Trong trời đất vạn vật không có vật chi hóa sanh biến dưỡng mà không có Tiên Thiên, Hậu Thiên Ngũ Hành áp dụng vào nhân thân. Người tu luyện phải thấu suốt những tác năng sinh động hữu hình trong chính bản thân để hòa hợp tu chứng.

Ngươn Thần, ngươn Tinh, ngươn Tính, ngươn Tình, ngươn Khí là Ngũ Hành Vô Hình. Thức Thần, trược Tinh, quỷ Phách, du Hồn, vọng Ý là Ngũ Hành Hữu Chất. Bính Đinh, Nhâm Quý, Canh Tân, Giáp Ất, Mồ Kỷ là Ngũ Hành Phương Vị. Đó là hữu danh, hữu chất, vô hình là nguồn gốc của Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân là tượng của Ngũ Hành ứng với phương vị để truyền sản tác thông, nguyên căn tổ khiếu của ngũ ngươn, ngũ tạng, lục phủ là hình trong hình, chất trong chất. Do đó có hỉ, nộ, ai, lạc, dục.

Biết được sự liên hệ mật thiết giữa máy Tạo tuần hoàn, nhân thân cùng vũ trụ thì tu luyện là cần thiết cho con người. Khi đã tạo thành, con người sống trong hai khí Tiên Thiên, Hậu Thiên; tinh thần hòa lẫn vật chất; hữu hình vật chất thì biến hiện, vô hình thì tiềm ẩn, thế nên con người chỉ thấy giá trị của vật chất mà không thấy giá trị của tinh thần, vì vật chất hữu hình, quyến rũ, lôi cuốn, con người càng ngày càng bám víu; trong khi  Chơn Tâm linh tánh càng ngày càng bị phủ mờ. Hỉ, nộ, ai, lạc, dục theo ngũ quan nhập vào tàn phá Ngũ Tạng Lục Phủ, làm thân phải bị thương tổn, khuynh khuyết, hoại tàn.

Muốn trị được chứng nội thương ấy, người tu luyện cần phải chuyên chú trong việc luyện kỷ. Dương là đầu mối hóa sanh, tác thành vạn vật. Một Âm không sanh, một Dương không trưởng; Âm thạnh, Dương suy ắt bại hoại. Tạo thế quân bình cho trong định ngoài an là đời sống tự do, tự tại. Vượt ngoài lý Âm Dương là phản bổn hoàn nguyên, vĩnh cửu trường tồn. Tai nghe tiếng trần mà chẳng phân biệt; mắt nhìn thấy sắc trần mà chẳng phân biệt; mũi ngửi mùi trần mà chẳng phân biệt; lưỡi nếm vị trần mà chẳng phân biệt. Chính vì sự phân biệt mà có ưa ghét, thân thù, khao khát, ước vọng để kết thành của nghiệp luân hồi. Vui, giận, buồn, vui, thương, cảm khi chưa phát gọi là trung.  Khi phát ra đúng tiết điệu hòa hài cảm ứng với nội tâm, ngoài cảm gọi là hòa. Trung Hòa là yếu tố đạt đến chỗ trong định ngoài an, để sống một cuộc sống siêu thoát; mà sống cuộc sống siêu thoát thì Tiên Phật cũng thế thôi.[1]

Nhưng qua đoạn giáo lý trên chúng ta thấy được ngũ hành trên nền tảng của đạo học cũng không có một chút dấu vết nào để có thể nói ngũ hành là 5 loại vật chất. Và không thấy dấu vết nào của hai quy luật tương sinh và tương khắc chi phối hay vận hành thế giới hiện tượng lẫn thế giới siêu hình như lý thuyết ngũ hành phổ cập thường nói tới.  


[1] Giáo Lý Cao Đài


Việt Dịch - Hà Hưng Quốc (#15)

Bí Mật Của Đất Trời Gói Gọn Trong Hai Vế
Cốt Lõi Của Dịch Học Nằm Trong 67 Lời

trở về: Việt Dịch - bài 14

3. LẠC THƯ, 9 CUNG VÀ 12 CUNG
Từ mô hình Việt Dịch Đồ chúng ta có thể lấy phần nằm bên trong vòng xanh của hình H27, để xếp vào 9 cung và được kết quả của một hình Bát Quái Hà Đồ Cửu Cung giống như hình H40.  Sự phối hợp của những yếu tố âm dương, độ số, Tứ Tượng, Ngũ Hành, và Bát Quái vẫn duy trì như từ trước đến giờ.  





Rồi từ hình H40, Bát Quái Hà Đồ Cửu Cung, chúng ta chỉ cần đem hành Hỏa với hành Kim hoán vị cho nhau là có được kết quả của một hình Bát Quái Lạc Thư Cửu Cung như trong hình H41.  




Cũng từ Việt Dịch Đồ hình H27, chúng ta có thể lấy phần nằm bên ngoài vòng xanh của hình H27, để xếp vào 12 cung và được kết quả của một hình Bát Quái Hà Đồ Thập Nhị Cung giống như hình H42, một đồ hình căn bản của môn Tử Vi.  Sự phối hợp của những yếu tố âm dương, độ số, ngũ hành, và 8 quái vẫn nhất quán như từ trước đến giờ.



 
4. NHỮNG QUY LUẬT PHỐI HỢP ÂM DƯƠNG, NGŨ HÀNH, ĐỘ SỐ, THIÊN CAN VÀ ĐỊA CHI
Và cũng từ Việt Dịch Đồ hình H27, chúng ta cũng rút ra được một số quy luật phối hợp giữa âm dương, ngũ hành, độ số, 10 thiên can và 12 địa chi như cho thấy trong hình H43 và H44.