Wednesday, December 11, 2013

Giải Mã Bản Chất Thật Của Hai Sao Thái Dương Và Thái Âm Trong Tử Vi - Hà Hưng Quốc



Hai sao Thái Dương và Thái Âm trong bộ môn Tử Vi là một sản phẩm trừu tượng nhưng được hình thành trên cơ sở kiến thức khoa học tự nhiên.  Quan sát khoa học được khái niệm hóa thành hai dòng hành khí rồi đặt tên là sao Thái Dương và sao Thái Âm. 

Cặp sao Thái Dương và Thái Âm KHÔNG PHẢI là cặp Nhật Nguyệt/ Trời Trăng.  Chúng là cặp đôi “Thái Dương và âm bản biểu kiến đối xứng của Thái Dương”; là cặp đôi “ánh sáng phía bên này và bóng tối phía bên kia trái đất”; là cặp đôi “hai dòng hành khí vận hành ngược chiều nhau.”  Tên gọi của chúng có thể đã mượn từ Dịch, hai nghi Thái Dương và Thái Âm, để chỉ hai dòng hành khí dương và hành khí âm vận hành trên mặt đất.  Hành khí không gì khác hơn là năng lượng biến dịch dưới tác động của ánh sáng/ bức xạ của mặt trời.  Sự phân bố MVĐH [miếu, vượng, đắc, hãm] của của hai sao Thái Dương và Thái Âm hoàn toàn hợp lý với khoa học. 

Điều quan trọng là sự vắng mặt của Nguyệt/ Trăng cùng với sự khám phá ra vai trò đơn độc của Trời và “cái bóng của Trời” trong tiến trình giải mã bản chất thật của cặp sao Thái Dương và Thái Âm còn là một bằng chứng rõ rệt cho thấy học giả và danh sư lý số Trung Hoa hoàn toàn mờ mịt về bản chất thật của hai sao Thái Dương - Thái Âm nói riêng, và của toàn bộ bộ môn Tử Vi nói chung nếu cộng vào những bằng chứng trong bài viết Giải Mã Những Bí Ẩn Trong Tử Vi của Hà Hưng Quốc đã được trưng ra trước đây. 

Nếu người Trung Hoa là chủ nhân đích thực của môn Tử Vi nói riêng, và của nền lý học đông phương nói chung, thì tại sao họ lại bị mờ mịt???  Phải chăng vì sự mờ mịt đó họ, vốn dĩ nguyên thủy không phải là chủ nhân đích thực, đã mò mẫm chấp vá và rồi nặn ra những mô hình và lý thuyết dường như rất đúng mà không đúng, những lý giải dường như thâm sâu mà mơ hồ và tùy tiện, và đã bị mắc kẹt suốt chiều dài tính bằng thiên niên kỷ với những “bí ẩn” không thể giải bằng chính những mô hình và lý thuyết do họ nặn ra???   Hà Hưng Quốc, Ph.D.



Hai sao Thái Dương (TD) và Thái Âm (TA) đối xứng nhau qua trục Sửu Mùi trên cung bàn của lá số.  Từng vị trí đối xứng của cặp TD–TA được liệt kê trong H1.  Trong bảng liệt kê này chúng ta thấy khi TD ở Sửu thì TA cũng ở Sửu, khi TD ở Dần thì TA ở Tí, khi TD ở Mão thì TA ở Hợi . . . và TD ở Tí thì TA ở Dần.  




H1: Vị Trí Đối Xứng Của Cặp Thái Dương - Thái Âm

Phối tất cả những vị trí đối xứng lên 12 cung của cung bàn Tử Vi thì chúng ta sẽ thấy kết quả giống như hình H2.




H2: Vị Trí Đối Xứng Của Cặp Thái Dương - Thái Âm Trên Cung Bàn Tử Vi

Xét nghiệm nội dung H1 và H2, không khó để chúng ta nhận ra rằng cặp Thái Dương và Thái Âm chuyển động ngược chiều nhau.  Thái Dương chuyển động thuận chiều kim đồng hồ [từ vị trí TD1 cho tới vị trí TD12] còn Thái Âm thì chuyển động ngược chiều kim đồng hồ [từ vị trí TA1 cho tới vị trí TA12]. 

Chuyển đổi cung bàn từ hình vuông thành hình tròn rồi cho quỹ đạo của Thái Dương [TD1 cho tới TD12] nằm ở vòng ngoài đi thuận theo chiều kim đồng hồ và cho quỹ đạo của Thái Âm [TA1 cho tới TA12] nằm ở vòng trong đi ngược chiều kim đồng hồ, chúng ta sẽ thấy kết quả giống như hình H3.  Thái Dương và Thái Âm cùng nằm trên trục Sửu Mùi [TD1-TA1 ở Sửu và TD7-TA7 ở Mùi] còn tất cả những vị trí khác đều đối xứng qua trục Sửu-Mùi.  Thí dụ như Thái Dương ở Dần  [TD2] đối xứng với Thái Âm ở Tí [TA2] qua trục, Thái Dương ở Mão [TD3] đối xứng với Thái Âm ở Hợi [TA3] qua trục. . .



H3: Vị Trí Đối Xứng Của Cặp Thái Dương -Thái Âm
Trên Cung Bàn Tử Vi Đã Được Đổi Từ Vuông Qua Tròn

Nhìn vào hình H3, với hai dòng vận hành ngược chiều nhau của cặp TD-TA, cũng không khó để chúng ta nhận ra là sự chuyển động của Thái Dương và Thái Âm khế hợp chặt chẽ và hoàn toàn với hai dòng vận hành trên Việt Dịch Đồ, hình H4.  Hai dòng vận hành này đại diện cho hai dòng hành khí, hành khí âm (HKA) nằm bên trong [vòng màu xanh lá] chuyển động ngược kim đồng hồ và hành khí dương (HKD) nằm bên ngoài [vòng màu đen] chuyển động thuận chiều kim đồng hồ. 




H4: Việt Dịch Đồ
(Nguồn: Việt Dịch của Hà Hưng Quốc)


Như chúng ta đã biết Tí là vị trí “âm cực dương sinh” còn Ngọ là vị trí “dương cực âm sinh.”  Nếu chúng ta gán một con số định lượng cường độ cho HKA và HKD ở mỗi vị trí [cũng là ở mỗi thời điểm trong chu kỳ sinh hoá trên Việt Dịch Đồ] thì con số nhỏ nhất sẽ nằm tại Tí và con số lớn nhất sẽ nằm tại Ngọ cho HKD và hoàn toàn ngược lại cho HKA.  Hãy cho con số nhỏ nhất đó là số không [0] và giả dụ thêm là sự thay đổi trong cường độ của hành khí từ một vị trí này sang vị trí kế tiếp là tăng thêm hay giảm bớt một đơn vị cường độ, và hãy cho đơn vị cường độ đó là một [=1], thì kết quả theo đó sẽ giống như hình H5. 




H5: Vị Trí Đối Xứng Của Cặp Thái Dương -Thái Âm
Trên Cung Bàn Tử Vi Đã Được Đổi Từ Vuông Qua Tròn
Với Định Lượng Cường Độ Của Hành Khí Tại Mỗi Vị Trí

Dấu cộng [+] trước mỗi con số là để chỉ khí dương và dấu trừ [-] trước mỗi con số là để chỉ khí âm.  Cường độ của HKD tăng dần từ Tí tới Ngọ và giảm dần từ Ngọ tới Tí, tức tăng dần từ +0 tới +6 và giảm dần từ +6 tới +0.  Cường độ của HKA tăng dần từ Ngọ tới Tí và giảm dần từ Tí tới Ngọ, tức tăng dần từ -0 tới -6 và giảm dần từ -6 tới -0. 

Hình H5 tuy là giúp cho chúng ta dễ dàng nhìn thấy sự chuyển dịch của hành khí qua từng thời điểm [vị trí], cường độ của hành khí tại mỗi thời điểm, và dạng biến đổi của dòng hành khí một cách tổng quát nhưng lại không giúp cho chúng ta dễ dàng nhận ra sự đối xứng của Thái Dương và Thái Âm được mã hoá trong từng cặp TD1-TA1, TD2-TA2, TD3-TA3 . . . cho tới TD12-TA12.  Để làm nổi lên yếu tố đối xứng này, chúng ta có thể xếp đặt lại nội hàm trong hình H5 một cách khác. Và kết quả cho thấy giống như trong hình H6. 



H6: DNA Của Cặp Thái Dương – Thái Âm
Đối Xứng Qua Trục Sửu Mùi

Dòng HKD của sao Thái Dương và dòng HKA của sao Thái Âm được trình bày dưới dạng dây sóng.  Mỗi chu kỳ của dây sóng Thái Dương chuyển dịch tuần tự từ TD1 tới TD12.  Mỗi chu kỳ của dây sóng Thái Âm chuyển dịch tuần tự từ TA1 tới TA12.  Hai dây sóng độc lập cấu thành bởi sự thay đổi cường độ của mỗi dòng hành khí.  Hai dây sóng đi ngược chiều nhau và lệch nhau đúng 180 độ.  Và mỗi điểm TDn trên dây sóng Thái Dương được nối với một điểm TAn trên dây sóng Thái Âm và chúng đối xứng nhau qua trục Sửu-Mùi.  Dãy sóng của hai dòng hành khí được cấu thành bởi những dây nối này liên kết hai dây sóng lại với nhau.  Dài ngắn và vị trí của mỗi dây nối tùy vào khoảng cách giữa Thái Dương và Thái Âm ở mỗi thời điểm đối xứng qua trục Sửu-Mùi.  Có nghĩa là khi Thái Dương và Thái Âm cùng tại Sửu thì khoảng cách TD1-TA1 là 0 độ, Thái Dương tại Dần và Thái Âm tại Tí thì khoảng cách TD2-TA2 là 60 độ [cách 2 cung x 30 độ mỗi cung], Thái Dương tại Mão và Thái Âm tại Hợi thì khoảng cách TD3-TA3 là 120 độ [cách 4 cung x 30 độ mỗi cung], Thái Dương tại Thìn và Thái Âm tại Tuất thì khoảng cách TD4-TA4 là 180 độ [cách 6 cung x 30 độ mỗi cung], Thái Dương tại Tỵ và Thái Âm tại Dậu  thì khoảng cách TD5-TA5 là 120 độ [cách 4 cung x 30 mỗi cung], Thái Dương tại Ngọ và Thái Âm tại Thân thì khoảng cách TD6-TA6 là 60 độ [cách 2 cung x 30 độ mỗi cung], Thái Dương và Thái Âm tại Mùi thì khoảng cách TD7-TA7 là 0 độ.  Dây nối dài nhất tại vị trí 180 độ và ngắn nhất tại vị trí không độ.  Một đường thẳng tưởng tượng chạy xuyên qua hai điểm Sửu Mùi và chia dãy sóng thành hai phần trên và dưới.  Đường thẳng tưởng tượng này chính là trục đối xứng Sửu-Mùi.  Dãy sóng của cặp Thái Dương – Thái Âm có hình dạng giống như cấu trúc DNA cho nên chúng ta tạm gọi nó là DNA của cặp Thái Dương – Thái Âm.             




H7: Vị Trí MVĐH Của Thái Dương Và Thái Âm

Như chúng ta được biết, trong bộ môn tử vi bất cứ tinh đẩu nào cũng đều có vị trí miếu địa, vượng địa, đắc địa hay hãm địa trên cung bàn.  Thái Dương và Thái Âm cũng không ngoại lệ. 

Vị trí miếu, vượng, đắc, hãm của hai sao Thái Dương và Thái Âm mà chúng ta biết hiện nay có thể nói là đạt được sự đồng thuận của các danh gia Tử Vi ngoại trừ một vài bất đồng nhỏ.  Tổng kết trong hình H7 cho thấy điều này.   

Với những xét nghiệm vừa rồi thì chúng ta có thể nói rằng dường như Thái Dương và Thái Âm là hai sao được hư cấu trên nền tảng thuyết âm dương.  Ở ngay thời điểm này của bài viết, hai sao Thái Dương và Thái Âm thực sự đại diện cho cái gì thì chúng ta vẫn chưa thể xác định.  Nhưng, một điều khả dĩ có thể xác định được là nếu hai sao Thái Dương và Thái Âm đã được hư cấu trên nền tảng thuyết âm dương thì biến dịch của âm dương tự nó tất yếu sẽ quyết định sự MVĐH [miếu, vượng, đắc, hãm] chứ không thể nào quyết định bởi cái gì khác, thí dụ như bởi qui luật ngũ hành.  Nói cho chính xác hơn, sự MVĐH của hai sao này tại mỗi vị trí sẽ là kết quả phản ảnh định lượng cường độ của hai dòng hành khí tại mỗi vị trí đó, hoặc là độc lập hoặc là tương tác nhau dưới một dạng nào đó. 

Dựa vào sự quan sát và phán đoán này, chúng ta có thể tiến hành kiểm nghiệm tính chất MVĐH của cặp sao Thái Dương – Thái Âm với thông tin đã có sẵn trong các hình H5, H6, H7.  Từ những thông tin trong các hình này chúng ta có thể rút ra và kiến tạo đường biểu diễn MVĐH của Thái Dương và Thái Âm như cho thấy trong hình H8.   



H8: Đường Biểu Diễn MVĐH của Thái Dương Và Thái Âm

Nhìn vào đường biểu diễn MVĐH của Thái Dương trong hình H8 chúng ta nhận ra được:
  • Tại Tí cường độ hành khí của Thái Dương là +0 và liên tục tăng lên tại các vị trí Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ.  Tại Sửu cường độ hành khí của Thái Dương đã tới mốc then chốt của chiều tăng trưởng (positive critical threshold) nên cho là đắc.  Tại Dần cường độ hành khí của Thái Dương đã vượt qua mốc then chốt của chiều tăng trưởng và hiển lộ ra bên ngoài nên cho là vượng.  Tại Mão, Thìn cường độ hành khí của Thái Dương rất mạnh nên cũng cho là Vượng.  Tại Tỵ, Ngọ cường độ hành khí của Thái Dương cực mạnh và lên tới đỉnh +6 nên cho là miếu.              
  • Tại Mùi cường độ hành khí của Thái Dương nằm trên tiến trình suy giảm nhưng chưa vượt qua mốc then chốt (negative critical threshold) nên gọi là đắc.  Tại Thân, Dậu, Hợi, Tí cường độ hành khí đã vượt qua mốc then chốt của chiều suy giảm và trượt dài cho tới đáy +0 nên được cho là hãm.   

Nhìn vào đường biểu diễn MVĐH của Thái Âm và đường biểu diễn MVĐH của Thái Dương trong hình H8 chúng ta nhận ra MVĐH được phân bố hoàn toàn giống nhau, nhưng hai đường biểu diễn lệch nhau 180 độ.

Và cũng từ hai đường biểu diễn MVĐH của Thái Dương và Thái Âm trong hình H8 chúng ta có thể rút ra được qui luật phân bố MVĐH của hai sao Thái Dương và Thái Âm.  Qui luật đó được tóm lược ngắn gọn trong hình H9 [cũng cần nhắc lại là Thái Âm ngược lại với Thái Dương.]




H9 – Qui Luật Phân Bố MVĐH của Thái Dương

Kết quả cho thấy H8 và H9 hoàn toàn trùng khớp với thông tin trong bảng tổng hợp ý kiến của các danh gia Tử Vi trong H7, đặc biệt là của Vân Đằng Thái Thứ Lang và của Nguyễn Phát Lộc, ngoại trừ một sai biệt nhỏ tại vị trí Dậu của Thái Âm.  Nếu dựa trên cùng một qui luật để quyết định MVĐH thì Thái Âm tại vị trí Dậu nên được coi là vượng thay vì miếu.

Câu hỏi được đặt ra là: cặp chánh tinh Thái Âm và Thái Dương trong bộ môn Tử Vi thực ra là đại diện cho cái gì??? 

Có rất nhiều danh gia Tử Vi cho rằng cặp chính tinh này đại diện cho mặt trời và mặt trăng.  Nhìn vào đường biểu diễn MVĐH của Thái Dương và Thái Âm trong hình H8 chúng ta nhận thấy mỗi đường gồm một nửa là chiều tăng trưởng còn một nửa kia là chiều thoái giảm.  Đường biểu diễn MVĐH của Thái Dương và đường biểu diễn MVĐH của Thái Âm lại luôn luôn ở vào tình trạng đối nhau [lệch nhau 180 độ] tức là khi đường biểu diễn MVĐH của Thái Dương đang ở chiều tăng trưởng thì đường biểu diễn MVĐH của Thái Âm đang ở chiều thoái giảm.  Và tính cách nghịch động nhau này khá giống với hiện tượng ngày đêm của mặt trăng và mặt trời [thấy trời thì không thấy trăng và ngược lại].

Trong Tử Vi chúng ta thấy có đầy dẫy những câu nói như  là “nhật nguyệt tranh huy” hoặc “nhật nguyệt chiếu bích” hoặc “nhật nguyệt đồng cung” hoặc “nhật nguyệt minh tịnh” vân vân.  Điều này chứng minh danh gia Tử Vi tin rằng Thái Âm và Thái Dương là để chỉ Trời Trăng/ Nhật Nguyệt. 

Nhưng, có đúng Thái Âm và Thái Dương thực sự là Trời Trăng/ Nhật Nguyệt???  Để tìm câu trả lời, chúng ta hãy thử nhìn vào H10, kết quả của “hình hoá” Nhật Nguyệt với những thông tin của Thái Dương và Thái Âm có sẳn trong các hình H5, H6, H7, H8.     




H10: MVĐH của Nhật Nguyệt
(Nếu Thái Dương & Thái Âm Là Nhật Nguyệt)

Bên trong vòng tròn là hãm địa.  Bên ngoài vòng tròn là đất miếu vượng.  Từ Sửu đến Mùi, Thái Âm hãm [nằm bên trong vòng tròn] còn Thái Dương thì miếu vượng [nằm bên ngoài vòng tròn].  Từ Mùi đến Sửu, Thái Âm miếu vượng [nằm bên ngoài vòng tròn] còn Thái Dương bị hãm [nằm bên trong vòng tròn].  Tại hai điểm Sửu và Mùi là giao điểm của sự chuyển tiếp từ hãm địa qua miếu vượng địa và ngược lại. 

Nhìn vào và phân tích nội hàm của H10 chúng ta thấy có rất nhiều điểm vô lý để cho rằng cặp Thái Dương và Thái Âm là Trời Trăng/ Nhật Nguyệt.  Vì nếu Thái Dương và Thái Âm đích thực là Trời Trăng/ Nhật Nguyệt thì không thể nào có khả năng “tranh huy” tại Sửu Mùi, dầu chữ “huy” có nghĩa là ánh sáng hay có nghĩa là lực.  Nếu Thái Dương và Thái Âm đích thực là Trời Trăng/ Nhật Nguyệt thì không thể nào Trời/Nhật lại bị hãm lúc 3-5 giờ chiều trong khi vượng miếu vào lúc 3-5 giờ khuya còn Trăng/Nguyệt lại bị hãm lúc 3-5 giờ khuya trong khi vượng miếu lúc 3-5 giờ chiều, dầu là nhìn dưới góc độ ánh sáng hay là lực.  Không cần là một khoa học gia để nhận ra sự phi lý này [thật đáng tiếc và đáng xấu hỗ là trước đây chính bản thân người viết cũng đã từng thiếu thận trọng để đi đến kết luận Thái Dương và Thái Âm là Nhật Nguyệt]. 

Thêm vào đó, rõ ràng là cách “tranh huy” nếu có thì chỉ có thể diễn ra tại hai điểm Mão & Dậu và chỉ có “Dương Âm tranh huy” [HKA tranh với HKD vì cường độ của cả hai lúc đó bằng +3 và -3] chứ không thể có “Nhật Nguyệt tranh huy” [vì, bên cạnh yếu tố thời gian xuất hiện đã không thể, ảnh hưởng của mặt trăng đối với trái đất lại càng không thể  “tranh huy” với mặt trời].

Nói tóm lại, Thái Dương và Thái Âm không thể nào là cặp Nhật Nguyệt/ Trời Trăng [phủ định]. 

Nếu vậy thì Thái Dương và Thái Âm đại biểu cho cái gì?  Để có câu trả lời chúng ta thử tiếp cận vấn đề một cách khác khoa học hơn.


H11 - Mặt Trời và Âm Bản Đối Xứng

Nhìn vào hình H11 chúng ta thấy mặt trời chiếu sáng lên trái đất tạo nên cái gọi “ban ngày” và tác động của sự chiếu sáng đó lên mặt đất tạo nên cái gọi là  “hành khí dương.”  Ở mặt phía bên kia của trái đất không có ánh sáng của mặt trời chiếu tới tạo ra cái gọi là “ban đêm” và tác động của sự thiếu vắng ánh sáng mặt trời lên mặt đất tạo nên cái gọi là “hành khí âm.”  Trong chu kỳ của một ngày đêm, tại điểm Ngọ giữa trưa trên trái đất, mặt trời gần vị trí đó nhất và hành khí dương ở điểm đó mạnh nhất [HKD = +6] trong khi hành khí âm ở điểm đó yếu nhất [HKA = -0].  Cùng lúc đó, tại điểm đối xứng với Ngọ, vị trí xa mặt trời nhất, là thời điểm Tí giữa khuya và hành khí âm ở điểm đó mạnh nhất [HKA = -6] trong khi hành khí dương yếu nhất [HKD = +0].  Tại Mão và Dậu là giao điểm của ban ngày và ban đêm, của bóng tối và ánh sáng, đồng thời cũng là giao điểm của hoàng hôn [phía bên này trái đất] và bình minh [phía bên kia của trái đất].  Tại đây cường độ của hành khí âm ngang với cường độ của hành khí dương [HKD = +3 và HKA = -3].  Hai chữ hành khí không gì khác hơn là sự chuyển dịch của năng lượng trên mặt đất.

Dựa trên sự quan sát trên chúng ta có thể phát biểu cặp Thái Dương và Thái Âm không phải là cặp Trời Trăng/ Nhật Nguyệt [khẳng định]. 

Thực ra thì Thái Dương đúng là mặt trời nhưng Thái Âm thì lại là âm bản biểu kiến đối xứng của mặt trời chứ không phải là mặt trăng.  Mặt trời là một vật thể thật còn mặt trời biểu kiến là một đối tượng ảo.  Mà đã là đối tượng ảo thì không thể gây ra tác động thật trên mặt đất.  Chính vì vậy Thái Dương và Thái Âm cần được hiểu một cách khác.  Nói cho rõ ràng hơn, thì Thái Dương đại biểu cho ánh sáng mặt trời còn Thái Âm đại biểu cho sự vắng mặt của ánh sáng mặt trời tức là bóng tối.

Cặp Thái Dương và Thái Âm không phải là cặp Nhật Nguyệt/ Trời Trăng.  Chúng là cặp đôi “Nhật và Âm Bản Biểu Kiến Đối Xứng của Nhật,” là cặp “mặt trời và âm bản biểu kiến đối xứng của mặt trời,” là cặp tinh đẩu đại biểu cho “ánh sáng của mặt trời chiếu vào bên này của trái đất và bóng tối do ánh sáng mặt trời không chiếu tới phía bên kia của trái đất,” là cặp sao đại biểu cho hai dòng năng lượng biến dịch trên mặt địa cầu.   Hoàn toàn không có vai trò của Nguyệt/ Trăng trong này. 

Hai chữ “thái dương” có thể nguyên thủy không phải là một danh từ kép “Thái Dương” mà là một một danh từ “dương,” chỉ ánh sáng hoặc năng lượng nóng, và một tỉnh từ “thái” có ý nghĩa là lớn đến bao trùm tất cả.  Tương tự, hai chữ thái âm có thể nguyên thủy không phải là một danh từ kép “Thái Âm” mà là một một danh từ “âm,” chỉ sự thiếu vắng ánh sáng [bóng tối] hoặc năng lượng lạnh, và một tỉnh từ “thái” có ý nghĩa là lớn đến bao trùm tất cả.  

Như vậy, nằm trong góc độ vừa nói, thì cặp sao Thái Dương và Thái Âm chính là để chỉ vào dòng hành khí dương và dòng hành khi âm vận hành ngược chiều nhau trên mặt địa cầu, như cho thấy trên Việt Dịch Đồ trong hình H4.  

Đến thời điểm này của bài viết thì chúng ta đã thấy rõ bóng hình của Dịch nằm trong hai sao Thái Dương và Thái Âm.  Nhìn lại Việt Dịch Đồ và qui luật phân bố MVĐH trong hình H9, lồng hai hình này trên cùng một khung, chúng ta thấy trục đối xứng Sửu Mùi thực ra là một tuyến chia đôi chu kỳ của mỗi dòng hành khí.  Với dòng hành khí dương [vòng vuông màu đen trên Việt Dịch Đồ], từ Sửu tới Mùi là nửa chu kỳ thịnh và từ Mùi tới Sửu là nửa chu kỳ suy của dòng hành khí này. Ngược lại, với dòng hành khí âm [vòng tròn màu xanh lá trên Việt Dịch Đồ], từ Sửu tới Mùi là nửa chu kỳ suy và từ Mùi tới Sửu là nửa chu kỳ thịnh của dòng hành khí.  Tất cả không nằm ngoài cái gọi là lưỡng nghi.

Nói cho cùng, hai chính tinh Thái Âm và Thái Dương của bộ môn Tử Vi chính là hai nghi Thái Âm và Thái Dương của Dịch.  Vở lẽ ra, thì núi vẫn là núi và sông vẫn là sông! 

Có lẽ chúng ta tự hỏi liệu có cơ sở khoa học hỗ trợ cho sự khám phá này??  Người viết không phải là một khoa học gia cho nên không đủ tư cách để xác định sự thật.  Tuy nhiên, với trình độ của một người bình thường, người viết nghĩ rằng sự khám phá vừa được trình bày không nằm ngoài hiểu biết khoa học thường thức.
  


H12 - Biến Dịch Của Năng Lượng Trong Một Ngày Đêm

H12 là giản lược của kiến thức khoa học.  Đồ họa trong hình cho chúng ta thấy là mặt trời mọc vào khoảng giờ Mão và lặn vào khoảng giờ Dậu.  Vào hai thời điểm này thì những tia mặt trời gần như song song với mặt đất và năng lượng trái đất tiếp thu [solar absorption/ incoming solar energy/ energy inputs] ở cường độ thấp nhất.  Giờ Ngọ những tia mặt trời thẳng góc với trái đất và năng lượng trái đất tiếp thu ở cường độ cao nhất.  Từ Mão tới Ngọ cường độ của năng lượng trái đất tiếp thu liên tục gia tăng và từ Ngọ tới Dậu cường độ của năng lượng trái đất tiếp thu liên tục giảm sút [đường biểu diễn màu đen].  Sau khi mặt trời mọc một thời gian ngắn thì cường độ của năng lượng trái đất phóng thích [solar reflection/ outgoing solar energy/ energy outputs] bắt đầu đổi chiều và gia tăng.  Cường độ của năng lượng tiếp thu ngang với cường độ của năng lượng phóng thích tại thời điểm này.  Từ đây cho tới giờ Mùi cường độ của năng lượng phóng thích cũng liên tục gia tăng [đường biểu diễn màu xanh].  Trong suốt thời gian này, vì năng lượng trái đất phóng thích [đường màu xanh dương] luôn ít hơn năng lượng trái đất tiếp thu [đường màu đen] cho nên theo đó nhiệt độ trên mặt đất tăng dần lên.  Và, tuy là trái đất nhận năng lượng mặt trời ở cường độ cao nhất vào giờ Ngọ nhưng nhiệt độ trên mặt đất chỉ đạt đến mức cao nhất vào giờ Mùi.  Tại thời điểm đó, cường độ năng lượng tiếp thu ngang với cường độ năng lượng phóng thích và tổng năng lượng hấp thụ [net energy in/ năng lượng sai biệt cộng/ vùng nhiều dấu cộng bên trong hai đường màu đen và màu xanh dương] đã đạt tới tối đa.  Tại giờ Mùi cường độ năng lượng phóng thích đổi chiều từ tăng sang giảm. Sau giờ Mùi, mãi cho tới giờ Mão ngày hôm sau, cường độ năng lượng phóng thích liên tục giảm [đường màu xanh dương].  Trong suốt thời gian này, năng lượng trái đất tiếp thu [đường màu đen] luôn ít hơn năng lượng trái đất phóng thích [đường màu xanh] cho nên theo đó nhiệt độ trên mặt đất giảm dần.  Tổng năng lượng phóng thích [net energy in/ năng lượng sai biệt trừ/ vùng nhiều dấu trừ bên trong hai đường màu đen và màu xanh dương] đạt tới tối đa tại giờ Mão, một thời gian ngắn sau khi mặt trời mọc. 


Biến đổi của năng lượng trên mặt đất còn được các nhà khoa học ghi nhận qua số đo bức xạ ròng [net radiation[1]] như cho thấy trong hình H13.  Và căn cứ vào hình này thì đường biểu diễn của số đo bức xạ ròng rất giống với đường biểu diễn cường độ của dòng hành khí dương, đặc biệt là tại 4 trọng điểm Tí [thấp nhất/ cực âm], Ngọ [cao nhất/ cực dương], Mão [chuyển tiếp từ thiếu sang thừa/ âm dương ngang nhau] và Dậu [chuyển tiếp từ thừa sang thiếu/ âm dương ngang nhau], tuy rằng tốc độ chuyển dịch có khác nhau ở mỗi thời điểm chứ không đều đều [constant] như là người viết đã giả dụ ở đoạn đầu [Và điểm thiếu hoàn hảo của giả dụ không làm thay đổi giá trị của biện luận trong bài viết này.  Chúng ta có thể lấy đường biểu diễn trong hình H13 để thiết lập chính xác cường độ của HKD và HKA tại các thời điểm và rồi theo đó có được một mô hình hòan hảo hơn, nhưng xét ra không cần thiết]. 



H13 – Biến Dịch Của Năng Lượng Trong Một Ngày Đêm

Qua Số Đo Bức Xạ Ròng

Chỉ dựa vào quan sát khoa học trình bày trong hình H12 và H13 thì chưa đủ để giải thích cách phân bố MVĐH của hai sao Thái Dương và Thái Âm trong Tử Vi.  Đặc biệt là sự biến dịch của năng lượng vào ban đêm trong hình H12 cũng không khế hợp với sự phân bố MVĐH của sao Thái Dương, còn Thái Âm thì hoàn toàn không.

Tuy nhiên nếu chúng ta kết hợp sự thật khoa học với khái niệm “âm bản biểu kiến đối xứng” thì chúng ta sẽ thấy sự khế hợp hoàn mỹ.





H14 - Biến Dịch Của Năng Lượng & Âm Bản Biểu Kiến Đối Xứng

Chu Kỳ Một Ngày Đêm Cho Cả Hai Phía Của Địa Cầu  

Hình H14 là kết tinh của H11, khái niệm “âm bản biểu kiến đối xứng” và H12, sự thật của khoa học tự nhiên.  Chi tiết trong hình cho thấy, từ 6 giờ sáng đến 18 giờ chiều, A là vùng sáng ở phía bên này trái đất và A’ là vùng tối ở phía bên kia trái đất.  Biến dịch của năng lượng trên mặt đất ở vùng tối phía bên kia trái đất thể hiện trong đồ hoạ A’ và nó thực ra chỉ là âm bản biểu kiến đối xứng của đồ họa A thể hiện biến dịch của năng lượng trên mặt đất ở vùng sáng phía bên này trái đất.  Từ 18 giờ chiều cho tới 6 giờ sáng ngày hôm sau, B là vùng sáng ở phía bên kia trái đất và B’ là vùng tối ở phía bên này trái đất.  Biến dịch của năng lượng trên mặt đất ở vùng tối phía bên này trái đất thể hiện trong đồ hoạ B’ và nó thực ra chỉ là âm bản biểu kiến đối xứng của đồ họa B thể hiện biến dịch của năng lượng trên mặt đất ở vùng sáng phía bên kia trái đất.  




H15 - Đường Biểu Diễn Của Thái Dương

Áp một đường biểu diễn xuyên suốt 24 giờ từ Mão tới Mão lên đồ họa A và B’ đại diện cho một ngày đêm ở phía bên này của trái đất, hình H15A, không khó để chúng ta nhận ra nó là đường biểu diễn của Thái Dương. 




H15B - Đường Biểu Diễn Của Thái Âm

Tương tự, áp một đường biểu diễn xuyên suốt 24 giờ từ Mão tới Mão lên đồ họa A’ và B đại diện cho một đêm ngày ở phía bên kia của trái đất, hình H15B, cũng không khó để chúng ta nhận ra nó là đường biểu diễn của Thái Âm.

Hai đường biểu diễn này được phát hoạ, dầu là mô phỏng theo đường biểu diễn của năng lượng hấp thụ và năng lượng phóng thích [vùng + và vùng -] hay là của bức xạ ròng [net radiation curve] hay là của cường độ năng lượng trái đất tiếp thu thì chúng vẫn chính xác là hai đường biểu diễn của Thái Dương và Thái Âm với những đặc điểm hoàn toàn trùng khớp với sự phân bố MVĐH của Thái Dương và Thái Âm.

Rõ ràng Thái Âm là một âm bản đối xứng của Thái Dương [ngược lại của Thái Dương] dầu Thái Dương được hiểu là thể, trạng, hay tính.  Tuyệt nhiên không thấy hình bóng của Nguyệt/Trăng. 

Và ở đây chúng ta cũng thấy đường biểu diễn Thái Dương, hay nói theo ngôn ngữ của Dịch và của môn Tử Vi là đường biểu diễn của dòng hành khí dương mang tên Thái Dương, có một nửa thật và một nửa ảo.  Tương tự, đường biểu diễn Thái Âm, hay là đường biểu diễn của dòng hành khí âm mang tên Thái Âm, có một nửa ảo và một nửa thật.  Thái Dương vốn dĩ cấu thành từ một nửa thật của bên này và cái bóng [là âm bản biểu kiến đối xứng] do một nửa thật của bên kia tạo ra.  Thái Âm vốn dĩ được cấu thành từ một nửa thật của bên kia và cái bóng [là âm bản biểu kiến đối xứng] do một nửa thật của bên này tạo ra.  Như vậy, trong Thái Dương đã hàm tàng Thiếu Dương và Thiếu Âm và trong Thái Âm đã hàm tàng Thiếu Âm và Thiếu Dương.  Một lần nữa chúng ta thấy Dịch lý hiển hiện trong cách cấu thành cặp sao Thái Âm và Thái Dương của Tử Vi.

Để khép lại bài viết này, chúng ta có thể nói hai sao Thái Dương và Thái Âm trong bộ môn Tử Vi là một sản phẩm trừu tượng nhưng được hình thành trên cơ sở kiến thức khoa học tự nhiên.  Quan sát khoa học được khái niệm hóa thành hai dòng hành khí rồi đặt tên là sao Thái Dương và sao Thái Âm. 

Cặp sao Thái Dương và Thái Âm KHÔNG PHẢI là cặp Nhật Nguyệt/ Trời Trăng. Chúng là cặp đôi “Thái Dương & âm bản biểu kiến đối xứng của Thái Dương”; là cặp đôi “ánh sáng phía bên này & bóng tối phía bên kia trái đất”; là cặp đôi “hai dòng hành khí vận hành ngược chiều nhau.”  Tên gọi của chúng có lẽ đã mượn từ Dịch, hai nghi Thái Dương và Thái Âm, để chỉ hai dòng hành khí dương và hành khí âm vận hành trên mặt đất.  Hành khí không gì khác hơn là năng lượng biến dịch dưới tác động của ánh sáng/ bức xạ của mặt trời.  Sự phân bố MVĐH [miếu, vượng, đắc, hãm] của của hai sao Thái Dương và Thái Âm hoàn toàn hợp lý với khoa học. 

Điều quan trọng là sự vắng mặt của Nguyệt/ Trăng cùng với sự khám phá ra vai trò đơn độc của Trời và “cái bóng của Trời” trong tiến trình giải mã bản chất thật của cặp sao Thái Dương và Thái Âm còn là một bằng chứng rõ rệt cho thấy học giả và danh sư lý số Trung Hoa hoàn toàn mờ mịt về bản chất thật của hai sao Thái Dương - Thái Âm nói riêng, và của toàn bộ bộ môn Tử Vi nói chung nếu cộng vào những bằng chứng trong bài viết Giải Mã Những Bí Ẩn Trong Tử Vi của Hà Hưng Quốc đã được trưng ra trước đây. 

Nếu người Trung Hoa là chủ nhân đích thực của môn Tử Vi nói riêng, và của nền lý học đông phương nói chung, thì tại sao họ lại bị mờ mịt???  Phải chăng vì sự mờ mịt đó nên họ, vốn dĩ nguyên thủy không phải là chủ nhân đích thực, đã mò mẫm chấp vá và rồi nặn ra những mô hình và lý thuyết dường như rất đúng mà không đúng, những lý giải dường như thâm sâu mà mơ hồ và tùy tiện, và đã bị mắc kẹt suốt chiều dài tính bằng thiên niên kỷ với những “bí ẩn” không thể giải bằng chính những mô hình và lý thuyết do họ nặn ra???    

Ngày 2 Tháng 12 Năm 2013

tiếp theo Giải Mã Bản Chất Thật Của Hai Sao Tử Phủ


[1] Net Radiation - Balance between incoming and outgoing shortwave and longwave radiations. Mathematically expressed as: Q* = (K + k)(1 - a) - LU + LD
where:
Q* is surface net radiation (global annual values of Q* = 0, because input equals output, local values can be positive or negative),
K is surface direct shortwave radiation,
k is diffused shortwave radiation (scattered insolation) at the surface, a is the albedo of surface,
LD is atmospheric counter-radiation (greenhouse effect) directed to the Earth's surface, and
LU is longwave radiation lost from the Earth's surface.

Monday, March 11, 2013

ĐỂ LÀM SÁNG TỎ MỘT SỰ THẬT ĐÃ BỊ KHUẤT LẤP THEO THỜI GIAN: DỊCH LÀ VIỆT & DỊCH LÀ CỦA VIỆT.


Hà Hưng Quốc, Ph.D.



Chữ DỊCH được người Hoa ngày hôm nay viết là .  Để hiểu chữ này một cách tường tận, chúng ta cần lội ngược về nguồn khám phá ra sự thật đã khuất lấp theo thời gian.

Trước hết chúng ta sẽ tìm hiểu về chữ TRỜI.  Chữ TRỜI (mặt trời) đã có từ rất lâu.  Những phát hiện chữ viết trên mai rùa và xương thú, gọi là Giáp Cốt Văn 甲骨文, cho thấy chữ TRỜI được viết như những hình khắc bên dưới, xem H1.  Người ta kết tập được ít nhất cũng khoảng 231 chữ TRỜI và những hình khắc trong H1 chỉ là một mớ trong số đó.  Giáp Cốt Văn đã hoàn chỉnh vào thời Vũ Đinh (1250 TCN -1192 TCN) và được coi là loại chữ xưa nhất.[1]



Kim Văn kế thừa Giáp Cốt Văn.  Kim Văn 金文 hay Cát Kim Văn Tự còn gọi là Minh Văn 铭文 hay Chung Đỉnh Văn 钟鼎文 là loại văn tự được khắc hoặc đúc trên đồ đồng, xuất hiện vào thời Thương và trở thành loại văn tự chủ đạo của thời Chu và kéo dài tới Tần Hán.  H2 cho thấy một số chữ TRỜI Kim Văn.



Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, với chính sách thống nhất văn tự và đơn vị đo lường “thư đồng văn, xa đồng quỹ 书同文 车同轨” (sách viết cùng loại chữ, xe có cùng cỡ trục) thì loại chữ Tiểu Triện 小篆, còn gọi là Tần Triện 秦篆, đã được Thừa Tướng Lý Tư phụ trách đưa vào sử dụng trong các văn bản chính thức.  Tiểu Triện Văn được kiến tạo trên cơ sở chữ Đại Triện 大篆 của thời Tần qua tiến trình giản hóa và chọn lọc từ chữ viết của sáu nước lúc đó.[2]  H3 cho thấy một số chữ TRỜI Triện Văn.



Và cuối cùng thì chữ TRỜI từ

được “vuông hóa” thành chữ người Hoa vẫn đang sử dụng ngày hôm nay.  Từ Giáp Cốt Văn tới chữ vuông ngày nay là một hành trình dài hơn 3200 năm.[3]  


Chữ Hán Việt đọc là NHẬT.  Chữ Bắc Kinh đọc là RỨƠ.  Chữ Nôm Việt Cổ đọc là RỰC/RỎ và DIỆT.  Chữ Triều Châu (Mân Việt) đọc là DIỀT.  DIỆT cũng là DIỀT do phát âm nặng nhẹ mà thành.  Âm RỨƠ là biến âm của chữ RỰC/RỎ của Nôm Việt Cổ.  Diềt hay là Rực là Nôm ngày xưa của Bách Việt, và chỉ có người Việt có phát âm Diềt nầy.  Âm DIỀT hay âm DIỆT cũng chính là âm VIỆT chữ quốc ngữ của người Việt chúng ta. “Tiếng Mân Việt - Việt Triều Châu là một phương ngữ rất xưa, được nhìn nhận bởi nhiều chứng minh là có cỡ ít nhất là 7000 năm lịch sử, xưa hơn âm Hán Việt thời nhà Hán hay nhà Đường . . . rất nhiều.  Chữ Nôm với âm Nôm có trước là Diềt chứ không phải là âm Nhật của Hán Việt có trước.”  (Nguồn: Chữ Nôm Cổ Xưa Và Ý Nghĩa Của Việt của tác giả Đỗ Thành).  


Chữ thứ hai chúng ta cần xét tới là chữ TRĂNG.  Chữ TRĂNG (mặt trăng) cũng đã có từ rất lâu.  Những phát hiện chữ viết trên mai rùa và xương thú cho thấy chữ TRĂNG được viết như những hình khắc bên dưới, xem H4, và người ta đã kết tập được ít nhất là 74 chữ TRĂNG.  
 



Kim Văn kế thừa Giáp Cốt Văn và sau đó là Triện Văn, nên chữ TRĂNG  cũng biến đổi theo.  H5 cho thấy một số chữ TRĂNG Kim Văn và H6 cho thấy một số chữ TRĂNG Triện Văn.




Và cuối cùng thì chữ TRĂNG từ   



được vuông hóa thành chữ người Hoa vẫn đang sử dụng ngày hôm nay.   


Chữ Hán Việt đọc là NGUYỆT.  Chữ Bắc Kinh đọc là DUÊ.  Chữ Quảng Đông đọc là DUYỆT.  “Tiếng Quảng Đông ngày nay vẫn đọc Nguyệt là Duyệt y như phát âm của chữ Việt và Việt. Tiếng [Hán] Việt ngày nay đọc là Nguyệt rất gần với âm Việt/Duyệt. Tiếng ‘Nam Việt - Việt Quảng Đông’ cũng là phương ngữ xưa, xưa hơn âm Hán hay Đường . . rất nhiều… Chữ Nôm với âm Nôm là Duyệt có trước, chứ không phải là âm Nguyệt của Hán Việt có trước.”  (Nguồn: Chữ Nôm Cổ Xưa Và Ý Nghĩa Của Việt của tác giả Đỗ Thành).


Chữ thứ ba chúng ta cần tìm hiểu là chữ DỊCH.  Chữ DỊCH cũng đã có từ rất lâu.  Những phát hiện chữ viết trên mai rùa và xương thú cho thấy chữ DỊCH được viết như những hình khắc bên dưới, xem H7.  Người ta kết tập được ít nhất cũng khoảng 73 chữ DỊCH và những hình khắc trong H7 chỉ là một mớ trong số đó. 


Sau Giáp Cốt Văn là Kim Văn và Triện Văn.  H8 cho thấy một số chữ DỊCH Kim Văn và H9 cho thấy một số chữ DỊCH Triện Văn.





Và cuối cùng thì chữ DỊCH từ  


được “vuông hóa” thành chữ người Hoa vẫn đang sử dụng ngày hôm nay.


Chữ Hán Việt đọc là DỊCH. Chữ Bắc Kinh đọc là YI.  Chữ Triều Châu đọc là ÉCK.  Chữ Quảng Đông đọc là DIỀT và DIỆK.  Chữ Nôm Cổ Việt đọc là DIỀT và DIỆK.  DIỀT và DIỆK là do phát âm nặng nhẹ mà thành, cận âm với chữ Việt quốc ngữ của chúng ta ngày nay. “Tiếng Quảng Đông đọc chữ Việt nầy là Diềt /Diệk hoàn toàn như người Triều Châu đọc chữ Việt nầy là Diềt/Diệk.”  (Nguồn: Chữ Nôm Cổ Xưa Và Ý Nghĩa Của Việt của tác giả Đỗ Thành).
    
Khảo sát tiến trình biến đổi từ chữ Giáp Cốt cho đến chữ vuông ngày hôm nay, không khó để chúng ta nhận ra chữ DỊCH là một tổng hợp biểu ý  


được hình thành từ hai chữ biểu hình là TRỜI  


và TRĂNG


Hai chữ TRỜI TRĂNG ngang nhau thì biểu ý là MINH , còn TRỜI trên TRĂNG dưới thì biểu ý là DỊCH.  Phát âm của chữ TRỜI, chữ TRĂNG và chữ DỊCH theo Nôm Việt Cổ đều là âm VIỆT của chữ Việt quốc ngữ ngày nay.  Nói một cách khác, DỊCH chính là VIỆT. 

 


Nói “hai chữ TRỜI TRĂNG ngang nhau thì biểu ý là MINH , còn TRỜI trên TRĂNG dưới thì biểu ý là DỊCH” không phải là một phát biểu tùy tiện.  Nhìn vào Giáp Cốt Văn thì sẽ thấy sự khác biệt giữa kết hợp TRỜI TRĂNG ngang nhau để biểu ý MINH, xem H10 và H11, và kết hợp TRỜI trên TRĂNG dưới để biểu ý DỊCH, xem H7 bên trên, là một chủ ý quá rõ rệt.  Hai biểu ý riêng biệt với hai chủ ý rõ rệt này không những đã có ngay từ lúc ban sơ, tìm thấy trong đống Giáp Cốt, mà còn kéo dài và liên tục cho đến ngày hôm nay, kinh qua các giai đoạn Kim Văn và Triện Văn.  Cả thảy 19 chữ MINH Giáp Cốt Văn (100%) đều theo cấu trúc TRỜI TRĂNG đặt ngang nhau và không có những tia sáng.  Cả thảy 73 chữ DỊCH Giáp Cốt Văn (100%) đều theo cấu trúc TRỜI trên TRĂNG dưới và có những tia sáng.  [Xoay những hình trong H7 cho vòng tròn mặt trời nằm trên, vòng cung mặt trăng nằm dưới, và các tia ánh sáng nằm dưới cùng sẽ thấy rõ.  Thoạt nhìn thì thấy những hình này giống như là mặt trời vừa nhô khỏi đỉnh đồi nhưng nếu là vậy thì ánh sáng phải tỏa ra từ mặt trời và tỏa lên phía trên chứ không nằm phía dưới vòng cung do đó giải thích nghe hợp lý hơn thì những tia sáng hoặc là (1) biểu hình cho ánh sáng của mặt trăng hoặc là (2) biểu hình cho ánh sáng của cả hai.  Từ đó có thể thấy sự khác biệt rất lớn giữa biểu ý Minh và biểu ý Dịch, dầu là cả hai đều từ sự kết hợp Trời và Trăng.  Trong khi bản thân biểu hình mặt trăng và mặt trời là hai chủ thể chính biểu ý cho chữ Minh thì bản thân của những vạch biểu hình ánh sáng của mặt trăng hoặc/và mặt trời mới là chủ thể chính biểu ý cho chữ Dịch.].   

Hai chữ biểu tượng TRỜI TRĂNG dùng để biểu ý chữ DỊCH vẫn còn để lại “dấu vân tay” trong Hán Vuông ngày hôm nay.  Thông tin trong H12, lấy ra từ Hán Việt Từ Điển, tự nó đã giải thích đầy đủ sự liên hệ mật thiết giữa các thành phần làm nên chữ DỊCH. 



Nhưng theo Đỗ Thành, một nhà nghiên cứu người Việt gốc Hoa thành thạo nhiều phương ngữ Trung, thì:

Việt” đây là chữ Dịch chính là chữ tượng hình vẽ mặt trời hình tròn O với các tia sáng chung quanh được mỹ thuật hóa và vuông hóa thành chữ Nhật được đặt ở phía trên, và các tia sáng chung quanh được gom lại biến thành chữ Vật để ở phía dưới thành ra Việt.  Chữ Việt nầy với chữ Việt cổ xưa nhất là vẽ hình mặt trời có tia sáng phát ra tứ phía là chung một chữ mà thôi. Thật ra Kinh Dịch là đọc trại âm từ chữ Kinh Việt. Kinh của người Việt thì mới gọi là Kinh Việt = Mặt trời + tia sáng = Việt/.” 

Và Đỗ Thành còn khẳng định “Việt = Trời/Trăng soi sáng = Hình mặt trời các tia phát sáng trên trống đồng = viết bằng O với những tia sáng = = = .  Hai chữ Việt nầy, , đều là ‘mặt trời cháy sáng’.”  Ông giải thích:

“Việt Chữ Nôm đọc là Duyệtở Quảng Đông [Nôm Cổ Việt].  Ngày nay Hán Việt và Việt đọc là Việt, âm Bắc kinh đọc là Yué (ghi chú: bên Triều Châu dùng chữ “Việt” thay chữ “Việt” nầy). Cách viết chữ Việt nầy rất giống chữ Dịch”.  Chữ Việt nầy là Hướng về mặt trời Chiếu sáng với chữ Thể là ‘Bẻ’ để biểu hiện ý của âm ‘E’ là ‘Yue’ là ‘Việt’.  Bản thân của chữ Thể trong cổ văn thì đó là chữ Nôm nghĩa là Cháy, chữ ‘Cháy’ là Mộc đang phát cháy bằng mấy nét phía trên là ngọn lữa., Tôi là người Mân Việt nên hiểu rỏ chữ Cháy nầy (Cháy còn 1 phát âm khác là Bẻ để nói nghĩa khác, và “Bẻ” hay “Bén” cũng lại quay về ấm Bén, cháy bén…) …Cháy sáng nguyên 1 vòng cầu tức là “Cầu vòng” mà ngày nay được viết bằng Thể Hồng-彩虹 tức là Cầu vòng…Nhiều người cứ tưởng rằng Việt với bên trong chữ Hướng là Mễ là gạo…, không phải vậy đâu. Bởi vì nghĩa cuả Việt là Nhật- Nguyệt là Quang Minh-Soi sáng… như Trống đồng của Cổ Bách Việt tộc đã lưu dấu trong lịch sử.”
      
            Như vậy thì luận điểm của Đỗ Thành tuy có hơi khác nhưng xét cho cùng thì cũng không khác vì theo ông (một cách gián tiếp) mặt trời/mặt trăng không là chủ thể chính [như trong chữ Minh] mà ánh sáng chiếu ra mới là chủ thể chính biểu ý của chữ Dịch.  Và điều này đúng với hình ảnh trên Giáp Cốt Văn biểu ý chữ Dịch.      

            Dầu chữ là một tổng thể TRỜI trên TRĂNG dưới với những TIA SÁNG biểu ý DỊCH hay là một tổng thể chỉ có mặt trời với các tia ánh sáng được mỹ hóa thành chữ Vật để biểu ý DỊCH thì kết luận cũng vẫn như nhau: DIỀT = DIỆK = DUYỆT = DỊCH = VIỆT.   

Và như Đỗ Thành đã kết luận: “Kinh Dịch là đọc trại âm từ chữ Kinh Việt.   Kinh của người Việt thì mới gọi là Kinh Việt.”   


Có hai vấn đề lớn nằm trong kết luận trên của Đỗ Thành.  Với sự khẳng định chữ Hán phát triển trên nền tảng của chữ Nôm Việt Cổ, sẽ có một số lượng không ít những nhà nghiên cứu Việt không đồng ý, nếu không muốn nói là “chống kịch liệt”.  Với não trạng “tự nô lệ hóa” và với thành kiến đảo lộn sự thật “lấy quả làm nhân” (ngôn ngữ của Hà Văn Thùy) cho rằng “hơn 70% tiếng Việt vay mượn từ tiếng Hán” nên họ luôn khẳng định tiếng Hán là chủ thể của tiếng Việt.  Không còn gì sai hơn!  Lấy một vụ khai quật mộ cổ nổi tiếng 馬 王 堆 vào đầu thp niên 1970 có liên quan đến Kinh Dịch làm thí dụ điển hình.  Tiếng Hán Việt đọc là Mã Vương Đôi.  Tiếng Anh dịch là “King Ma's Mound."  Sự thật cho thấy chẳng có vị Vua Ngựa hay Vua Ma nào được chôn ở đó cả.  Qua khảo chứng người ta đã xác định ba ngôi mộ cổ này được chôn cất từ hồi thế kỷ thứ hai trước công nguyên.  Chủ nhân của ba ngôi mộ là Lợi Thương, vị thừa tướng Nước Trường Sa thời kỳ đầu Tây Hán, phu nhân Tân Truy của ông và con trai của hai ông bà.  Chỉ là vị “quan” họ Lợi thì làm sao lại được ghi là “Mã Vương”?  Sự thật không có gì kỳ bí.  Trường Sa, Hồ Nam phía Nam Trung Quốc là vị trí nằm ngay trung tâm của người Việt Cổ do đó nói bằng tiếng Nôm Việt Cổ thì những ngôi mộ đó nằm ở Đồi Mả Quan, tức là cái đồi có mả (mồ) của quan.  Địa danh Đồi Mả Quan tồn tại lâu dài trong cộng đồng Việt.  Khi người Hoa xuất hiện thì do không phát âm đúng tiếng Việt và không hiểu nghĩa của tiếng “mả” nên đọc trại thành “mã” còn “quan” thành “wan” rồi thành “Wang” theo đó Đồi Mả Quan biến thành “Má Wang Tui.”  Đến khi chuyển sang chữ vuông, người sau không còn hiểu lai lịch khu mộ mà chỉ “phiên ngang” theo âm nên ký âm bằng chữ vuông Mã Vương Đôi 馬王堆.  Bằng chứng này cho thấy tiếng Nôm Việt Cổ đã có từ rất xưa (trong trường hợp này thì mốc thời gian là 2200 năm trước) và Nôm Việt Cổ không phải là sản phẩm vay mượn từ tiếng Hán, ngược lại mới đúng “sự thật như nó đã là.”      



            Nhìn lại lịch sử chữ DỊCH từ thời Giáp Cốt Văn xuyên suốt cho tới thời Trung Văn ngày nay, xem H13, có lý nào để nói ngược ngạo rằng tiền nhân sống trên đất Việt xưa đã vay mượn chữ viết và tiếng nói của người Hán?  Hay nói một cách khác, chẳng lẽ trước khi dân du mục phương Bắc tràn qua Hoàng Hà hòa huyết đẻ ra Hoa Hạ thì người Việt cổ sống trên đất Việt xưa không biết nói, không chữ viết và không văn hóa?  Chẳng lẽ nhóm dân du mục “phương Bắc bạo cường” đó có sẵn một nền văn hóa “tầm cao” mang vào đất Việt xưa để áp đặt và thành công với sự áp đặt văn hóa để từ đó tự hào với cái gọi là văn hóa Hán tộc?  Tuy người viết không phải là nhà ngôn ngữ học, cũng không phải là nhà khảo cổ, nhưng cũng có thể đủ sức để hiểu một điều là tiếng nói và chữ viết không thể từ trên trời bổng dưng rơi xuống đất Ân Thương để đám con lai Hoa Hạ lấy đó cho là của riêng Hán tộc.  Còn Việt cổ sống trên đất Việt xưa có phải là Việt hay không thì cuốn Tìm Lại Cội Nguồn Qua Di Truyền Học (2011) của Hà Văn Thùy đã giải thích rõ. 

            Vấn đề thứ hai, khẳng định Dịch là của Việt thì chắc chắn là số người đồng ý sẽ không nhiều hơn số ngón trên hai bàn tay.  Biết thực tế là vậy nhưng điều này không hề làm cho người viết nao núng.  Hà Hưng Quốc đã từng viết nhiều cuốn sách để giải thích vì sau Dịch là của Việt.  Không những Dịch mà luôn cả Âm Dương, Ngũ Hành, Hà Đồ, Bát Quái, Bảng Lục Thập Hoa Giáp, Ngũ Hành Nạp Âm, Tử Vi  cũng là của Việt.  Và đi xa hơn là cả nền văn hóa Trung Hoa hiện nay cũng được đẻ ra từ cái nôi văn hóa Việt cổ.  Nhưng dầu cho lý luận có “hàn lâm” đến mấy thì cũng không qua được sự thật rất “bình dân” của Đỗ Thành, đó là: “Kinh của người Việt thì mới gọi là Kinh Việt.”    

Nếu chúng ta để ý thì sẽ thấy chữ DỊCH có nguồn gốc từ thiên văn.  Mà có nguồn gốc từ thiên văn thì không thể nào là sản phẩm của giống dân du mục phương Bắc.  Và nó phải là sản phẩm phát sinh từ cái nôi trồng lúa nước ở phương Nam, của Việt.  Căn cứ vào chi tiết trong Thuật Dị Ký 述異記 của sách Thông-chí 通志 (2AL, Q II, Ngũ Đế Kỷ Đệ Nhị, Chí #35, tr. 224) của sử gia Trịnh Tiều (1104-1162).  Sách chép: 

Đào Đường chi thế, Việt Thường quốc hiến thiên tuế thần quy, bối thượng hữu văn, giai khoa đẩu thư, ký khai tịch dĩ lai, Đế mệnh lục chi, vi chi Quy-lịch. 陶唐之世, 越裳國獻千歲神龜,背上有文,皆科斗書,記開闢以來,帝命錄之,謂之龜歷。” 

Dịch: “Đời Đào Đường, nước Việt Thường dâng thần quy ngàn tuổi, trên lưng có văn, đều là chữ khoa-đẩu [chữ nòng nọc], chép việc từ thuở khai thiên tịch-địa đến bấy giờ, Đế sai chép và gọi là Lịch Rùa.” 
[Ngưng trích dẫn]

Sách Cương Mục Tiền Biên của Kim Lý Tường cũng có chép rằng, “năm 2361 trước Công nguyên, tức năm Mậu Thân thứ 5 đời Ðường Nghiêu Sứ thần Việt Thường Thị sang chầu dâng rùa thần".  Theo Kim Lý Tường con rùa gọi là thần quy vì rùa to hơn 4 thước ta [khoảng 1.20 mét], trên lưng có chữ nòng nọc [đẩu văn], ghi tổng quát lịch sử cấu tạo vũ trụ và nhân loại từ thuở ban đầu cho tới đời vua Ðường Nghiêu.[1] 
    
Giáo sĩ L.Wieger, một nhà thông thái dòng Tên, cũng ghi nhận "người Tầu đã dựa vào cống phẩm rùa thần mà làm ra Qui Lịch” (L.Wieger, Hisfoire des croyances religieuses et des opinions philosophiques en Chine, depnis l’ origine jusqu à nos jonrs./ Lịch Sử Tín Ngưỡng Và Quan Điểm Triết Học ở Trung Hoa, Từ Khởi Thủy Cho Đến Thời Đại Chúng Ta, trích dẫn bởi TS. Thái Văn Kiểm).[2]

Cũng trong Kinh Thư, về việc hiến thần quy, “Ðế Nghiêu nhà Ðường sai Hy Thúc giữ việc này suy trác khí hậu ở Nam Giao, điều hòa mọi việc thời tiết sớm muộn về mùa hè... Suy trác cẩn thận để tháng trong Hạ được đúng với thời tiết. Lại phải xem đến việc thay đổi của người và trời đất.” (Lịch Với Lịch Sử Kinh Tế Chính Trị Và Chiến Tranh của Nguyễn Thường, Nghiên Cứu Lịch Sử số 3 (262) tháng 5 & 6-1992, tr.51-59).[3]  

Với người viết thì câu chuyện tặng rùa thần này là một sự kiện lịch sử rất quan trọng.  Nó là dấu công chứng đóng “trực tiếp” lên cụm chữ DỊCH LÀ CỦA VIỆT.   

Đúng như học giả Zhou Jixu khẳng định: “Không giống như các dân cư Ngưỡng Thiều và Hà Mẫu Độ là những người đến từ miền Nam Trung Quốc, dân cư của Hoàng Đế đến từ phía Tây của Trung Quốc, từ phần phía Tây của lục địa Âu-Á. Họ chinh phục người dân của lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử, những người thủ đắc nền văn hóa nông nghiệp phát triển . . .  Lịch sử được ghi trong tài liệu truyền thống chỉ duy nhất tính đến việc người của Hoàng Đế đi vào trong thung lũng Hoàng Hà và phát triển văn minh ở đó. [Còn n]hững người đã sống trước đó và tạo dựng nền văn minh tiền sử huy hoàng của hai con sông đã bị chìm sâu sau màn sương lịch sử. Họ đã bị loại trừ khỏi sử biên niên truyền thống, trong đó bao gồm hầu như tất cả các sách lịch sử Trung Quốc, từ Thượng Thư, kinh Thi đến Sử ký . . . Đây là một lịch sử mang xu hướng đảo lộn vị trí giữa chủ và khách.”[4]

Xin cảm ơn tất cả bạn đọc.  Chào thân ái.
Kính.

Hà Hưng Quốc.
Ngày 1 Tháng 3 Năm 2013




[1] “Giáp cốt văn hoàn chỉnh nhất là vào thời Vũ Đinh nhà Thương, và lượng văn tự được tìm thấy ngày nay cũng chủ yếu ở vào thời kì này.”  (Nguồn: Chuyên Trang của Diễn Đàn Hán Ngữ, www.tiengtrung.org, Lịch Sử Chữ Hán 3: Đại Triện)
[2] Khái niệm về loại chữ Đại Triện cũng không thống nhất. Có người cho rằng Đại Triện bao gồm Kim Văn và Lựu Văn, lại có người cho rằng Đại Triện là Lựu Văn. Cũng có khi người ta gọi tất cả các loại chữ cổ thời tiên Tần là Đại Triện.  (Nguồn: Chuyên Trang của Diễn Đàn Hán Ngữ, www.tiengtrung.org, Lịch Sử Chữ Hán 3: Đại Triện).
[3] “Hệ văn tự sớm nhất được phát hiện cho đến nay là chữ giáp cốt (giáp cốt văn 甲骨文) mà niên đại được xác định khoảng 1200 tcn.” (Nguồn: VietScience.  Thưởng Thức Thư Pháp Trung Quốc của Lê Anh Minh, 1/9/2006)
[7] Tái trích Zhou Jixu.The Rise of Agricultural Civilization in China: The Disparity between Archeological Discovery and the Documentary Record and Its Explanation. SINO-PLATONIC PAPERS Number 175 December, 2006.  Trong bản thảo Viết Lại Lịch Sử Trung Hoa của Hà Văn Thùy.