TRANH NGŨ HỔ: CHỈ ĐƠN GIẢN LÀ
MỘT BỨC MỘC BẢN NGHỆ THUẬT DÂN GIAN HAY LÀ MỘT DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ CỦA
VIỆT CỔ ĐƯỢC TIỀN NHÂN MÃ HÓA VÀ GIẤU SAU VỎ BỌC TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN NHẰM BẢO
TỒN VÀ TRUYỀN LẠI CHO CON CHÁU VIỆT?
Hà Hưng Quốc
02/13/2012
Trở lại: Giải Mã Tranh Ngũ Hổ Hàng Trống - bài 1
2. GIẢI MÃ TRANH NGŨ HỔ HÀNG TRỐNG
Nhìn vào bức tranh Ngũ Hổ Hàng
Trống, hầu như mọi người đều biết 5 con hổ và màu sắc của chúng là tượng trưng
cho ngũ hành. Đó là trực nhận của quần
chúng, dầu họ không biết gì nhiều về lý thuyết ngũ hành. Và họ đã không sai.
Tuy nhiên, theo nhận xét của tác
giả, bức tranh Ngũ Hổ Hàng Trống không phải là “bức tranh ngũ hành” mà là bức
tranh “lý thuyết ngũ hành.” Năm con, năm
màu, năm quả hay bất cứ cái gì có đủ 5 cũng làm nên ngũ hành. Và một bức tranh chỉ cần phản ảnh bao nhiêu đó
đã đủ điều kiện là một bức tranh ngũ hành.
Nhưng một khi nguyên lý và qui luật sinh khắc của ngũ hành được đưa vào trong
tranh thì nó không còn là bức tranh ngũ hành nữa mà đã trở thành là bức tranh (chứa
đựng) lý thuyết ngũ hành. Và giữa hai có
một sự cách biệt rất lớn. Một đàng gắn
liền với tín ngưỡng dân gian còn một đàng thì gắn liền với thế giới học thuật quảng
bác. Thêm vào đó, bố cục của bức tranh rất
tinh vi dầu chủ đề rất tầm thường. Do
đó, cái độc đáo của bức tranh Ngũ Hổ nằm ở chỗ là nó có một cấu trúc rất tinh
vi và nội dung chứa đựng một lý thuyết lớn nhưng tất cả được che đậy bởi một vỏ
bọc bình dị ở bên ngoài.
Trước hết chúng ta vẽ một vòng
tròn giống với đội hình của 5 con hổ và viết xuống một hành tương ứng theo màu
sắc của mỗi con hổ. Phóng đại cho chữ
Thổ lớn gấp đôi so với những chữ khác cho tương xứng với kích cỡ gấp đôi của
con hổ nâu ở trung ương so với những con khác.
Kế tiếp vẽ một vòng cung có mũi nhọn chỉ hai chiều giữa hổ đen hành Thủy
và hổ trắng/vàng hành Kim, giữa hổ xanh lá hành Mộc và hổ đỏ hành Hỏa, giữa hổ
xanh lá hành Mộc và hổ đen hành Thủy, giữa hổ đỏ hành Hỏa và hổ trắng/vàng hành
Kim. Những vòng cung hai chiều này đại
diện cho thế liên minh giữa mỗi cặp hổ.
Sau cùng chúng ta vẽ một đường thằng hai chiều giữa hổ xanh lá hành Mộc
và hổ trắng/vàng hành Kim, giữa hổ đen hành Thủy và hổ đỏ hành Hỏa. Những đường thẳng hai chiều này đại diện cho
thế kình chống nhau của mỗi cặp hổ. Tất
cả đều theo đúng với những chi tiết đã được ghi nhận trong phần I. Và kết quả sẽ giống như hình H5.
H5: NGŨ HỔ VÀ NGŨ HÀNH
Sau cùng chúng ta cho hổ biến
khỏi bức tranh H5. Điều chỉnh toàn bộ phiên
bản để cho hành Thủy nằm về phương chính Bắc (phía trên). Dời trục ngang Mộc-Kim và trục đứng Thủy Hỏa
ra ngoài và đặt ngay dưới vòng tròn, hai đường thẳng cắt nhau tại trung điểm,
tạm gọi là hình X. Ghi chú vị trí Thủy,
Hỏa, Kim, Mộc vào hình X. Đến đây là chúng
ta đã “phục dựng” xong mô hình lý thuyết ngũ hành trong tranh Ngũ Hổ Hàng
Trống. Xem hình H6.
H6
Bây giờ chúng ta mới đem mô hình lý thuyết ngũ hành trong
tranh Ngũ Hổ Hàng Trống đặt cạnh mô hình lý thuyết ngũ hành phổ cập và mô hình
lý thuyết ngũ hành nguyên thủy để so sánh.
Xem hình H7.
H7 – SO SÁNH THUYẾT NGŨ HÀNH
Lý thuyết ngũ hành phổ cập là một
lý thuyết ngũ hành mà đa số đều quen thuộc.
Ngũ hành là 5 loại vật chất. Năm
hành đồng đẳng. Sinh khắc của 5 hành chỉ
diễn ra một chiều khép kín. Ngũ hành
tương sinh theo qui luật Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh
Kim, Kim sinh Thuỷ. Ngũ hành tương khắc theo
qui luật Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ. Nguyên lý và hai quy luật sinh khắc của nó
được tóm gọn trong hình H7-A.
Lý thuyết ngũ hành nguyên thủy là
một lý thuyết ngũ hành ít người biết. Nguyên
lý và hai quy luật sinh khắc của nó được tóm gọn trong hình H7-C. Lý thuyết ngũ hành nguyên thủy được nói tới
lần đầu tiên trong tác phẩm Việt Dịch của Hà Hưng Quốc. Và sau đó tác giả của Việt Dịch đã chứng minh
là bảng Lục Thập Hoa Giáp[1] và
bộ môn Tử Vi[2] được xây
dựng trên nền tảng của lý thuyết ngũ hành nguyên thủy chứ không phải trên nền
tảng của lý thuyết ngũ hành phổ cập.
Lý thuyết ngũ hành trong tranh
Ngũ Hổ Hàng Trống vừa được giải mã và tóm gọn trong hình H7-B. Phần hình tròn, một nửa trên của hình H7-B,
thể hiện quy luật tương sinh của lý thuyết ngũ hành trong tranh Ngũ Hổ Hàng
Trống. Phần hình hai đường thẳng cắt
nhau nhau tại trung điểm, một nửa dưới của hình H7-B, thể hiện quy luật tương
khắc của lý thuyết ngũ hành trong tranh Ngũ Hổ Hàng Trống.
So sánh 3 mô hình với nhau, nó
không khó để chúng ta nhận thấy mô hình lý thuyết ngũ hành trong tranh Ngũ Hổ Hàng Trống
thực ra chính là mô hình lý thuyết ngũ hành nguyên thủy. Cái mô hình hành Thổ ở trung tâm với 4 hành
còn lại ngồi trên một vòng tròn thể hiện liên hệ tương sinh hai chiều giữa các
hành tiếp giáp nhau cùng với hình hai đường thẳng cắt nhau tại trung điểm thể
hiện liên hệ tương khắc giữa hai hành đối lập nhau là dấu ấn của lý thuyết ngũ
hành nguyên thủy.
Nó cũng không khó để chúng ta
nhận ra là mô
hình lý thuyết ngũ hành trong tranh Ngũ Hổ Hàng Trống hoàn toàn khác với mô
hình lý thuyết ngũ hành phổ cập.
Có ít nhất là 3 điểm làm nên sự khác biệt.
- Lý thuyết ngũ hành trong tranh Ngũ Hổ Hàng Trống có nguồn gốc từ thiên văn. Chìa khóa xác nhận chính là chòm Bắc Đẩu và Thái Dương trong tranh. Lý thuyết ngũ hành phổ cập có nguồn gốc từ 5 loại vật chất. Do đó, không thể đánh đồng!
- Mô hình lý thuyết ngũ hành trong tranh Ngũ Hổ Hàng Trống cho thấy sự vận hành của quy luật tương sinh cũng như của quy luật tương khắc là sự vận hành hai chiều. Hai hành tiếp giáp nhau thì sinh nhau, tương sinh. Hai hành đối lập nhau thì khắc nhau, tương khắc. Còn hai quy luật sinh khắc của ngũ hành phổ cập thì vận động theo một chiều khép kín [đã là một chiều thì không thể “tương” do đó không thể nói là “tương sinh” hay “tương khắc” theo đúng ý nghĩa]. Giữa hai lý thuyết không có sự tương đồng và cũng không thể nhầm lẫn.
- Lý thuyết ngũ hành trong tranh Ngũ Hổ Hàng Trống có hành Thổ nằm tại trung tâm còn lý thuyết ngũ hành phổ cập thì không có. Mô hình lý thuyết ngũ hành phổ cập cho thấy rõ điều này. Xem hình H7-A. Nguyên lý của của lý thuyết ngũ hành phổ cập cũng xác nhận điều này. Nguyên lý đó là 5 hành đồng đẳng, sinh khắc chỉ diễn ra một chiều khép kín. Đã là vậy thì làm gì có chuyện hành Thổ nằm ở trung tâm của vòng tròn tương tác. Mọi giải thích sinh khắc với hành Thổ nằm ở trung tâm đều là biện giải “bắt quàng” [và phải vay mượn hình Hà Đồ và hình Lạc Thư để giải thích] vì tự thân của lý thuyết ngũ hành phổ cập đã không thể giải thích được làm thế nào hành Thổ có thể nằm ở trung tâm.
Trong tranh Ngũ Hổ Hàng Trống, con
cọp nâu hành Thổ ngồi ở chính giữa có kích cỡ gấp đôi những con hổ khác là để biểu
thị cho vai trò nổi trội của hành Thổ nằm tại trung tâm. Sự quan trọng đối với vai trò của hành Thổ trong
lý thuyết ngũ hành nguyên thủy cũng được trình bày rõ rệt trong cuốn Việt Dịch:
“Lý thuyết ngũ hành nguyên thủy trong Việt
Dịch coi chức năng và sức mạnh của 5 hành là 4+1. Chức năng và sức mạnh của 4 hành Thủy, Mộc, Hỏa,
Kim ngang nhau. Nhưng riêng hành Thổ thì trội hơn 4 hành kia . . . Theo đó, hành Thổ làm trung gian cho 4 hành kia và
dung nạp được cả 4 hành kia.”[3] Ngược lại, lý thuyết ngũ hành phổ cập thì coi
5 hành đều ngang nhau. Như vậy thì con
hổ nâu lớn gấp đôi ngồi ở trung tâm chỉ có thể đại diện cho hành Thổ của lý
thuyết ngũ hành nguyên thủy chứ không thể nào là của lý thuyết ngũ hành phổ cập.
Con hổ hành Thổ ngồi ở trung tâm
của vòng tròn được phóng lớn gấp đôi so với những con hổ khác không phải chỉ là
“to lớn, uy nghiêm, quắc thước . . . biểu hiện bản lĩnh vững vàng, thành, tín”
như Lê Hướng Quỳ nhận xét (Nguồn: Mạn Đàm Tranh “Ngũ Hổ”) mà còn là biểu hiện
chỗ trọng tâm của vấn đề, chỗ trọng điểm của lý thuyết, chỗ trọng yếu của nội
dung.
Như vậy thì, nội dung cụm ảnh 5
con hổ của bức tranh Ngũ Hổ Hàng Trống đã được làm sáng tỏ. Có ai đó đã cố ý mã hóa LÝ THUYẾT NGŨ HÀNH NGUYÊN THỦY và
giấu nó trong bức tranh Ngũ Hổ Hàng Trống. Xin lập lại, không phải là lý thuyết ngũ hành
phổ cập đa số đều quen thuộc mà là LÝ THUYẾT NGŨ HÀNH NGUYÊN THỦY. Con hổ vĩ
đại ở trung tâm với chòm Bắc Đẩu và Thái Dương đã “nói” như vậy. Ai đó đã “làm nổi cộm” sự khác biệt cực kỳ quan
trọng này qua hình ảnh con hổ hành Thổ vĩ đại ở trung tâm với chiếc chìa khoá là
cụm hình Bắc Đẩu và Thái Dương.
Tại sao là 5 hổ mà không là 5 quả
hay 5 con gì khác? Tại sao là chòm Bắc
Đẩu và Thái Dương mà không là chòm sao nào khác hay là cái gì khác?
Những câu hỏi này dẫn chúng ta đến công việc giải mã cụm hình
ảnh thứ hai trong bức tranh: chòm Bắc Đẩu và Thái Dương.
Chòm Bắc Đẩu và sao Bắc Thần, ngoài việc nhờ vào nó để định
hướng [hướng Bắc], còn là cây kim chỉ thời gian và mùa tiết trên trái đất.
Thiên văn Á Đông chia các sao
trong vòng Bắc Cực Khuyên (circumpolar stars) và cả các sao trong vòng Hoàng
Đạo thuộc nửa múi cầu liên hệ trong thiên cầu thành 12 cung từ Tí đến Hợi chiếu
xuống mặt phẳng Xích Đạo. Chuôi của chòm
Bắc Đẩu trong Tiểu Hùng Toạ [Ursa Minor] chỉ vào cung Tí thì gọi là Kiến Tí,
chỉ vào cung Sửu thì gọi là Kiến Sửu, chỉ vào cung Hợi gọi là Kiến Hợi.
H13 - BẦU TRỜI CỰC BẮC
(Nguồn: Hán Việt Dịch
Sử Lược của GS Trần Hữu Quang)
Mỗi tháng Đẩu Cương chỉ vào một cung. Thập Nhị Thần là 12 nơi mà Đẩu Cương của chòm
Bắc Đẩu
chỉ vào mỗi tháng. Tháng Giêng Đẩu Cương chỉ Dần, tháng Hai Đẩu Cương chỉ Mão,
tháng Ba Đẩu Cương chỉ Thìn . . . Đẩu Cương chỉ vào đâu thì nguyên khí
của tháng ở tại đấy. Nguyên khí của trời thì vô hình nên
cứ trông Đẩu Cương của chòm Bắc Đẩu chỉ vào đâu thì biết nguyên khí ở đó, nên gọi
là Nguyệt Kiến.
Trong cuốn Thiên Văn Học Cổ Trung Hoa, Nhân Tử Nguyễn Văn
Thọ đã viết về vai trò của Đẩu Cương của chòm Bắc Đẩu như sau:
[Trích dẫn]
“Xem sao Bắc Đẩu buổi
chiều khoảng 18 giờ sẽ biết dưới trần gian đang ở vào mùa nào. Thí dụ:
- Tháng 11 ta,
chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Tí.
- Tháng 12 ta,
chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Sửu.
- Tháng 1 ta,
chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Dần.
- Tháng 2 ta,
chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Mão, v.v.
Như
vậy, sao Bắc Đẩu chính là đồng hồ để chỉ mùa, chỉ tháng quanh năm.
Sao Bắc Đẩu còn quay một vòng trong một ngày, như chiếc kim
đồng hồ. Thí dụ: Lúc 18 giờ buổi chiều nào đó, ta thấy chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng
Mão, thì 6 giờ sau tức vào nửa đêm, ta sẽ thấy nó chỉ hướng Ngọ. Sáu giờ sau nữa
(tức 6 giờ sáng ngày hôm sau), nó sẽ chỉ hướng Dậu. Suy ra thì 12 giờ trưa hôm
sau nó sẽ chỉ hướng Tí, để rồi 18 giờ chiều lại chỉ hướng Mão, v.v. . . .
. . . Sao Bắc Đẩu còn
quay một vòng trong một ngày, như chiếc kim đồng hồ. Thí dụ: Lúc 18 giờ buổi
chiều nào đó, ta thấy chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Mão, thì 6 giờ sau tức vào nửa
đêm, ta sẽ thấy nó chỉ hướng Ngọ. Sáu giờ sau nữa (tức 6 giờ sáng ngày hôm
sau), nó sẽ chỉ hướng Dậu. Suy ra thì 12 giờ trưa hôm sau nó sẽ chỉ hướng Tí, để
rồi 18 giờ chiều lại chỉ hướng Mão, v.v. . . .”
[Ngưng trích dẫn]
Trong
tập Vân Đài Loại
Ngữ, Lê Quí Đôn đã bàn về tiết khí trong một năm và tại đây thêm một lần nữa
cho thấy vai trò của Đẩu Cương của chòm Bắc Đẩu.
[Trích dẫn]
“Từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Mão (tháng 2), chính là tiết Xuân
Phân, cho đến tiết Lập Hạ giữa tháng Tị (tháng 4) là lúc Thiếu Dương quân hỏa
làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa. Từ khi chuôi sao Bắc
Đẩu chỉ hướng Tị (tháng 4), chính là tiết Tiểu Mãn, cho đến tiết Tiểu Thử vào
giữa tháng Mùi (tháng 6) là lúc Thiếu Âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy
nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc. Từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Mùi
(tháng 6), chính là tiết Đại Thử, cho đến tiết Bạch Lộ vào giữa tháng Dậu
(tháng 8), là Thái Âm thấp thổ làm chủ khí, tiết trời lúc ấy mây mưa nhiều, khí
ẩm thấp bốc lên. Từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Dậu (tháng 8), chính là tiết
Thu Phân, cho đến tiết Lập Đông vào giữa tháng Hợi (tháng 10), là lúc Dương
minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo. Từ khi
chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Hợi (tháng 10), chính là tiết Tiểu Tuyết, cho đến Đại
Tuyết (vào giữa tháng 12) là Thái Dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời
rét quá. Từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng
Sửu (tháng 12), chính là tiết Đại Hàn, cho đến tiết Kinh Trập (vào giữa tháng
2) là lúc Quyết Âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là mỗi
tiết khí ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.”
[Ngưng trích dẫn]
(Nguồn: Thiên Văn Học Cổ Trung Hoa của Nhân Tử Nguyễn Văn
Thọ).
Chòm Bắc Đẩu có 7 sao.
Sao ở vị trí thứ nhất là Khôi.
Sao ở vị trí thứ 5 là Hành. Sao ở
vị trí thứ 7 là Tiêu. Ba sao này gọi chung
là Đẩu Cương.
H12 - CHÒM SAO BẮC ĐẨU
Bắc Thần là sao Thiên Cực tinh đã được dùng để định vị trí
“trung tâm điểm trời.” Trầm Quát, thiên
văn gia đời Tống, đã viết “Trước đời Hán,
người ta tưởng rằng sao Bắc Thần ở trung tâm điểm trời, vì thế gọi là Cực tinh.” Sau này người ta mới biết thực ra sao Bắc Thần
cũng xoay quanh Bắc Cực và theo thời gian đã có nhiều sao khác nhau giữ địa vị
của sao Bắc Thần. Hữu Khu có lẽ đã được coi là Bắc Thần vào khoảng năm 3000
B.C.; Thái Ất (42 hay 184 Draconis) là Bắc
Thần khoảng năm 2000-1500 B.C; Thiên Ất (3067i Draconis) là Bắc Thần khoảng năm
1500-1000 B.C.; Thiên Đế tinh (b Ursae Minoris, Kochad) là Bắc Thần khoảng năm
1000 B.C.; Thiên Trụ hay Nữu Tinh (4339 Camelopardi) có lẽ đóng vai sao Bắc Thần
đời Hán; và Thiên Hoàng Đại Đế (a Ursae Minoris) đóng vai sao Bắc Thần hiện
nay.[4]
Vai trò của chòm Bắc Đẩu và sao
Bắc Thần đã được trình bày. Tưởng tượng
sao Bắc Thần là cái cốt ở trung tâm của mặt đồng hồ còn Đẩu Cương của chòm Bắc
Đẩu là cây kim đồng hồ xoay quanh cái cốt.
Thái Dương thì ai cũng biết là mặt trời. Nó là mặt trời trong Thái Dương Hệ của chúng
ta.
Theo Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ, “Khoảng thế kỷ
4 trước Công nguyên, Thạch Thân, Cam
Đức, và Vu Hàm là những người đã vẽ những bản đồ sao đầu tiên. Sau này, Trần Trác (thế kỷ 4 cn) cũng bắt chước
học mà lập bản đồ sao. Tiền Lạc Chi (khoảng 424-453) cũng đã làm những bản đồ
sao trên giấy phẳng. Sau này, Hoắc Vân Tất Đạt (715) trong quyển Khai Nguyên
Chiêm Kinh cũng phỏng theo các tài liệu cũ mà vẽ lại các bản đồ sao. Ngày nay,
quyển sách này cũng như quyển Tinh Kinh hãy còn. Tùy Thư - Thiên Văn Chí viết:
“Trần Trác, một thiên văn gia nước Ngô (thời Tam Quốc) là người đầu tiên đã làm
một bản đồ sao (khoảng năm 310) theo đường lối 3 thiên văn gia xưa (Cam
Đức, Thạch Thân, Vu Hàm).”
Mặt trời là Dương còn tinh tú và mặt trăng là Âm. Sự kết hợp của chòm Bắc Đẩu với Thái Dương
cho chúng ta biết chiếc chìa khoá này có liên quan đến Âm Dương Lịch. Thiên Văn
và Lịch Pháp luôn đi đôi.
Về Âm Dương Lịch, GS Nguyễn Hữu
Quang đã viết:
[Trích dẫn]
“Âm-dương Hợp-lịch biến-đổi theo Triều-đại:
Nhà Hạ lấy Kiến-Dần làm tháng Giêng, Nhà Thương/Ân lấy Kiến-Sửu làm tháng
Giêng, Nhà Chu lại lấy Kiến-Tí làm tháng Giêng. Nhà Tần lại lấy tháng Hợi làm
tháng giêng. Kể từ Nhà Hán trở đi, tháng Kiến Dần mới nghiễm-nhiên được chọn
làm tháng giêng. Cuộc cải-tiến lịch đầu là việc bãi bỏ Lịch Chuyên-Húc năm
Đinh-sửu (104 BC), đời Hán Vũ-Đế. Lịch ấy mang tên Thái-sơ, đế-hiệu mới của Hán
Vũ-Đế. Sử-gia Tư-mã Thiên (145-78 ?) tạo ra Lịch Tứ-phân 四分
(1 năm = 365 1/4 ngày), còn Lưu-Hâm (#46 BC-23) tổng-hợp ra Lịch Tam-thống 三 統 dùng Kinh Dịch một cách triệt-để, nhưng dùng
thiên-văn lịch-tượng một cách tối-thiểu. Sau này, Đời Nguyên và Đời Minh đều
dùng Lịch Thụ-thì. Trên nguyên-tắc Đời Minh có đặt ra Lịch Đại-thống 大統 nhưng trên thực-tế họ vẫn dùng Lịch Thụ-thì, sửa đổi chút ít
để chỉnh tuế-sai cho hợp với giáp-tí đương-quan. Đời Thanh lại đặt ra Lịch
Thì-hiến với sự giúp đỡ của các linh-mục Dòng Tên.”
[Ngưng trích dẫn]
(Nguồn: Hán
Việt Dịch Sử Lược của GS Nguyễn Hữu Quang)
Trở lại với câu hỏi vì sao là 5
hổ mà không là 5 con gì khác. Chúng ta
đều biết 5 Hổ còn có cách gọi khác là 5 Dần.
Trong chu kỳ 60 năm gọi là Lục Thập Hoa Giáp cũng có 5 mốc Dần. Thứ tự từ đầu chu kỳ cho đến cuối là Bính
Dần, Mậu Dần, Canh Dần, Nhâm Dần và Giáp Dần.
Người ta dùng 5 mốc Dần này để độn/tìm ngũ hành nạp âm trong những ứng
dụng lý số, và gọi đó là Ngũ Hổ Độn Pháp.
Như vậy thì, một mặt cụm hình 5 con
hổ đi cùng với cụm hình Bắc Đẩu-Thái Dương là để xác định lý thuyết ngũ hành
trong tranh Ngũ Hổ Hàng Trống có nguồn gốc từ thiên văn và xác định vị trí phía
Bắc hành Thủy cho con hổ đen. Vấn đề này
rõ ràng như ban ngày. Một mặt khác, cụm
hình 5 Dần đi cùng với cùm hình Bắc Đẩu và Thái Dương còn trỏ vào “một cái gì
đó” có liên quan đến lịch pháp, theo đó liên quan đến sự vận hành của mùa tiết,
và có liên quan đến lý thuyết ngũ hành, theo đó liên quan đến sự ứng dụng của
lý thuyết ngũ hành. Một cái gì đó rất
“nặng ký” và có một giá trị không kém giá trị của lý thuyết ngũ hành.
Sau khi cân nhắc, tác giả đi đến
kết luận “cái gì đó” chính là Bảng Lục Thập Hoa Giáp.
Như đã nói, trong tác phẩm Giải
Mã Bí Ẩn Lục Thập Hoa Giáp của Hà Hưng Quốc, tác giả đã chứng minh là Bảng Lục
Thập Hoa Giáp được kiến tạo trên nền tảng của lý thuyết ngũ hành nguyên
thủy. Như vậy thì sợi dây liên hệ đầu tiên giữa tranh Ngũ Hổ
Hàng Trống và Bảng Lục Thập Hoa Giáp chính là cái lý thuyết ngũ hành nguyên
thủy.
Bảng Lục Thập Hoa Giáp là một sản
phẩm quan trọng và có giá trị không kém gì lý thuyết ngũ hành. Nó là kết tinh của lý thuyết ngũ hành nguyên
thủy với lịch pháp qua cái phương pháp gọi là Ngũ Hành Nạp Âm. Nó là đáp án của bài toán vạn vật vận hành
qua sự biến thiên của hành khí trong một chu kỳ 60 năm. Ngũ Hành Nạp Âm và Bảng Lục Thập Hoa Giáp được
ứng dụng trong tất cả [nếu không là tất cả thì cũng là hầu hết] bộ môn lý số.
Trong tác phẩm Giải Mã Bí Ẩn Lục
Thập Hoa Giáp của Hà Hưng Quốc, tác giả cũng đã chứng minh và đưa đến kết luận
là toàn bộ Bảng
Lục Thập Hoa Giáp chứa đựng thông tin quan trọng về vị trí địa dư, về khí hậu
thời tiết, về điều kiện kinh tế, về trình độ kỷ thuật, về phong tục
. . . những thông tin được mã hoá trong Bảng Lục Thập Hoa Giáp có thể so sánh
với “thông tin mật” được sưu tập và lưu trữ tại NIGA (National Geospacial Imagery
Agency) của NSA thời nay.
Một lần nữa chúng ta lại thấy “có
ai đó” đã cố tình mã hóa những thông tin về “cội nguồn phát tích” và đem giấu
trong Bảng Lục Thập Hoa Giáp.
Như vậy thì sợi dây liên hệ thứ hai giữa tranh Ngũ Hổ Hàng
Trống và Bảng Lục Thập Hoa Giáp chính là sự mã hóa để che dấu “văn bản” và “cội
nguồn” của hai sản phẩm, Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy và Ngũ Hành Nạp Âm 60
Hoa Giáp, một cái là lý thuyết còn một cái
là ứng dụng.
Bên cạnh đối tượng số một là Bảng
Lục Thập Hoa Giáp chúng ta còn thấy có đối tượng thứ hai là bộ môn Tử Vi. Nó cũng liên quan đến lý thuyết ngũ hành
nguyên thủy, đến lịch pháp, đến sự vận hành của khí tiết, đến cả ngũ hành nạp
âm.
Trong tác phẩm Giải Mã Những Bí
Ẩn Trong Tử Vi của Hà Hưng Quốc, tác giả đã chứng minh là toàn bộ “hạ tầng cơ sở” của bộ môn Tử Vi được
kiến tạo trên nền tảng của lý thuyết ngũ hành nguyên thủy. Những bí ẩn đã tồn tại trong suốt một thời
gian dài --rất dài, có thể là cả thiên niên kỷ-- không có đáp án thỏa đáng bởi vì
lý thuyết ngũ hành phổ cập không đủ khả năng để giải thích.
Nếu lý thuyết ngũ hành nguyên
thủy chỉ có thể giải thích được một vài mảng rời rạc hoặc là lý thuyết ngũ hành
phổ cập chỉ không thể giải thích được một vài chi tiết nho nhỏ thì chưa phải là
vấn đề đáng báo động. Nhưng ở đây sự thất bại của lý
thuyết ngũ hành phổ cập rõ ràng là “rộng khắp” và có đặc tính “lỗi hệ thống.”
Đồng thời lý thuyết ngũ hành nguyên thủy lại có khả năng giải đáp được tất cả
lỗi hệ thống của lý thuyết ngũ hành phổ cập.
Điều này chứng tỏ đã có một sự tồn tại của hai lý thuyết ngũ hành trong
nhiều năm. Và dựa trên bằng chứng đã được
tác giả Hà Hưng Quốc đưa ra thì chỉ có lý thuyết ngũ hành nguyên thủy mới thật sự là “bản
gốc” vì những sản phẩm quan trọng có liên quan tới lý thuyết ngũ hành như là Bảng
Lục Thập Hoa Giáp hoặc bộ môn Tử Vi và ngay cả Tranh Ngũ Hổ Hàng Trống mà chúng
ta đang nói tới đều được kiến tạo trên nền tảng của lý thuyết ngũ hành nguyên
thủy. Hay nói một cách khác,
lý thuyết ngũ hành phổ cập chỉ là một “bản sao” sai lệch ngay từ nguyên lý.
Khi đem tất cả cột lại với nhau
và đặt trên cùng một khung ảnh thì chúng ta sẽ thấy tính “hệ thống” và tính
“chính thống” của lý thuyết ngũ hành nguyên thủy nổi bật lên.
H8 - BỨC TRANH TỔNG THỂ
Lý thuyết ngũ hành nguyên thủy có
thực sự là bản gốc, là chính thống? Câu
hỏi này dẫn chúng ta đến bước thứ ba là giải mã cụm hình cờ, gươm và hòm ấn.
Cờ, gươm, ấn là biểu tượng của
quyền lực. Với con hổ vĩ đại hành Thổ ngồi
ở trung ương thì quyền lực này phải được hiểu là quyền lực tuyệt đối.
Cụm hình này không đứng riêng lẽ
mà là đứng chung với hai cụm hình kia để tạo thành bố cục và nội dung của bức
tranh Ngũ Hổ Hàng Trống. Vì vậy, cái
quyền lực tuyệt đối mà cụm hình muốn biểu thị chắc chắn là phải được hiểu và
diễn giải ý nghĩa trong tương quan với ý nghĩa của hai cụm hình ảnh kia.
Vậy thì, quyền lực đó là quyền
lực gì?? Không, chắc chắn không phải là
quyền lực “sức mạnh vũ trụ thiên nhiên,
tiết mùa, thời vận của quy luật tự nhiên” như Lê Hướng Quỳ nhận xét.[5] Theo tác giả, quyền lực đó là quyền lực “văn
hóa chính thống,” là quyền lực “sáng tạo ra bản gốc,” là quyền lực “nắm giữ
tinh yếu” của lý thuyết ngũ hành nguyên thủy.
Là quyền lực của “ai đó” vốn là chủ nhân đích thực của một di sản văn
hóa phi vật thể rất là đồ sộ.
Đến đây thì nội dung của bức
tranh Ngũ Hổ Hàng Trống đã được phô bày trọn vẹn.
Dựa trên những bằng chứng mà
chúng ta vừa khám phá, chúng ta có thể kết luận tranh Ngũ Hổ Hàng Trống không phải
là một bức tranh chỉ đơn giản “khắc hoạ
hình tượng những vị nhiên thần vừa cao quý vừa gần gũi với con người” như Đặng
Nghiêm Vạn đã nhận xét khi viết về Tranh Nhân Gian Hàng Trống.[6] “Có ai đó” đã “mã hoá” lý thuyết ngũ hành
nguyên thủy vào bức tranh Ngũ Hổ Hàng Trống.
“Có ai đó” đã “chủ ý” mượn hình ảnh 5 con hổ để dễ dàng “thần hóa” bức
tranh và nhờ đó khoát lên nó chiếc áo tín ngưỡng dân gian để bảo tồn “văn bản”
muốn chuyển giao cho “hậu duệ của chủ nhân đích thực” qua sự truyền thừa “không
canh cải” từ thế hệ trước qua thế hệ sau. Và văn bản đó thì thầm: “Hãy trân trọng lý thuyết ngũ hành mà ta đã gởi gấm vào đây. Nó mới thực sự là bản gốc của lý thuyết ngũ
hành sáng tạo từ tổ tiên của các ngươi, là một phần của nền văn hóa chính thống
của các ngươi. Lần theo dấu tích để tìm
lại những kho tàng khác của tổ tiên các ngươi đã bị tước đoạt. Lần theo nó để
tìm lại cội nguồn minh triết của tổ tiên.
May mắn cho ngươi được kế thừa một di sản văn hóa phi vật thể vô cùng đồ
sộ.”
Những lời thì thầm của bức tranh,
dầu là dựa vào thông tin đã giải mã, hiển nhiên vẫn chỉ là theo cảm nhận của
tác giả.
Giải mã nội dung của bức tranh
chỉ là một vế của vấn đề. Còn một vế
khác quan trọng cũng không kém, đó là làm rõ vấn đề ‘ai đó” là ai và ai mới là
“chủ nhân đích thực” của lý thuyết ngũ hành nguyên thủy.
“Ai đó” có thể nào là dân Hán hay
không? Không. Chắc chắn là không phải. Người Hán không có lý do gì để phải mã hóa và
che giấu nó. Nếu lý thuyết ngũ hành
nguyên thủy là của người Hán thì sự cạnh tranh giữa hai lý thuyết đã diễn ra từ
lâu giữa “thanh thiên bạch nhật” và những “bí ẩn,” những “bất cập” mà lý thuyết
ngũ hành phổ cập không đủ khả năng để giải thích, đã không tồn tại suốt một
thời gian rất dài.
Vậy thì chỉ còn lại một giải
thích hợp lý. “Ai đó” phải là người
trong số những dân tộc bị người Hán xâm chiếm và văn hóa bị tước đoạt; là người
từng tự hào về nền văn hóa của dân tộc mình, một nền văn hóa từng “thấp sáng”
Trung Nguyên trong lúc Hán tộc vẫn còn là dân du mục man rợ; là người không
muốn những di sản văn hóa cực kỳ quan trọng lọt vào tay kẻ xâm lược; là người
muốn bảo tồn những di sản văn hóa đó của tổ tiên để truyền lại cho con
cháu.
Xét ra, hợp lý hơn cả, ai đó phải
là hậu duệ của Viêm Việt trong số Bách Việt.
Thu hẹp lại, ai đó rất có thể là con cháu của đất nước Việt Thường Thị,
con cháu của Lạc Việt.
Vũ Hữu Sự cho rằng “[s]ức sống của bức tranh chính là ở chỗ nó
đã thoát được khỏi cái vòng tôn giáo ấy.” (Nguồn: Từ bức tranh dân gian
''Ngũ Hổ'' nghĩ về con hổ trong văn hóa Á Đông) còn tác giả của sách Văn Hóa
Vĩnh Phúc thì cho rằng “tranh Hàng Trống
chủ yếu để thờ cúng, không kịp chuyển hóa cùng thời đại, dần dần bị mai một.”
(Nguồn: sách Văn hóa Vĩnh Phúc: Các dòng tranh dân gian và phần chú
thích). Tác giả thì ngược lại cho rằng
nhờ núp dưới chiếc áo tín ngưỡng nhân gian mà tranh Ngũ Hổ Hàng Trống mới không
bị kẻ thù xâm lược thiêu hủy nên còn tồn tại tới ngày nay và nhờ không chuyển
hóa theo thời đại mà lý thuyết ngũ hành nguyên thủy mã hóa trong tranh mới còn
nguyên vẹn đến ngày nay để được khám phá.
[1] Giải Mã
Bí Ẩn Lục Thập Hoa Giáp, tác giả Hà Hưng Quốc, trong Vườn Ươm Việt Dịch
(www.vietdich.blogspot.com).
[2] Giải Mã
Những Bí Ẩn Trong Tử Vi, tác giả Hà Hưng Quốc, trong Vườn Ươm Việt Dịch
(www.vietdich.blogspot.com).
[3] Giải Mã
Những Bí Ẩn Trong Tử Vi – Hà Hưng Quốc, www.vietdich.blogspot.com
[4] Nguồn:
Thiên Văn Học Cổ Trung Hoa, Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ.
[5] Mạn Đàm Tranh “Ngũ Hổ” của Lê Hướng Quỳ.
[6] Văn Hóa
Việt Nam Đa Tộc
Người: Khảo Cứu của Đặng Nghiêm Vạn.
No comments:
Post a Comment