TRANH NGŨ HỔ: CHỈ ĐƠN GIẢN LÀ
MỘT BỨC MỘC BẢN NGHỆ THUẬT DÂN GIAN HAY LÀ MỘT DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ CỦA
VIỆT CỔ ĐƯỢC TIỀN NHÂN MÃ HÓA VÀ GIẤU SAU VỎ BỌC TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN NHẰM BẢO
TỒN VÀ TRUYỀN LẠI CHO CON CHÁU VIỆT?
Hà Hưng Quốc
02/13/2012
Trở lại: Giải Mã Tranh Ngũ Hổ Hàng Trống - bài 2
3. SỰ TỒN TẠI CỦA HAI MẠCH LÝ THUYẾT
VÀ DẤU ẤN VIỆT TRONG NỀN VĂN HÓA HÁN
Tranh Ngũ Hổ Hàng Trống là đặc sản
Việt và nó lại là một phần trong mạch ngũ hành nguyên thủy nằm trong cả hai nền
văn hóa Trung & Việt. Sự thật này đã
là một phức tạp cho chúng ta khi cố gắng tìm hiểu về cội nguồn của mạch lý thuyết
ngũ hành nguyên thủy. Sự tồn tại đồng thời
của hai mạch lý thuyết ngũ hành trong cả hai nền văn hóa làm cho vấn đề càng phức
tạp hơn. Chúng ta thử men theo con đường
lịch sử từ hơn bốn ngàn năm trước tới hiện tại để xem có tìm ra vài dấu tích nào
khả dĩ có thể giải thích về sự tồn tại của hai mạch lý thuyết ngũ hành và cội
nguồn của chúng từ nền minh triết Việt.
TS Nguyễn Văn Vịnh, Viện nghiên
cứu xã hội và phát triển- Đại học Hà Nội, trong bài Những Cơ Sở Lý Thuyết
Khoa Học Của Thuật Phong Thủy đã viết: “Sự
đề cập đầu tiên đến ngũ hành là ở tác phẩm “Kinh thư” – một bộ sử cổ nhất của
nhân loại- trong phần về cửu trù hồng phạm, theo đó Ngũ hành là: thủy, mộc,
thổ, hỏa, kim. Trong đó, thủy là ướt và xuống, mộc là cong và thẳng, hỏa là
cháy và lên, thổ là để gieo mạ làm mùa, kim là theo và đổi.” Trần Thị Huyền, trong bài Sự Hình Thành Và
Phát Triển Học Thuyết Âm Dương Ngũ Hành Trong Tư Tưởng Cổ Đại Trung Quốc cũng
xác nhận là ngũ hành được nói tới lần đầu tiên trong tác phẩm Kinh Thư ở chương
Hồng Phạm và đã ghi nhận: “qua lời ‘Cổ Tử
cáo với Vua Vũ nhà Chu’[??]. Trong
Cửu trù ‘Hồng Phạm’ thì ngũ hành về mặt tự nhiên được hình thành bằng những tên
của năm loại vật chất cụ thể (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) và kèm theo tính chất
của các loại vật chất đó, năm loại vật chất này không thể thiếu được đối với
đời sống con người. Đứng về mặt thiên thời, ‘Hồng phạm’ cho rằng có cái gọi là
ngũ ‘kỷ’ (một là năm, hai là tháng, ba là ngày, bốn là các vì sao, năm là lịch
số). Về hiện tượng xã hội và hiện tượng tinh thần của con người, ‘Hồng phạm’ đề
xuất ‘ngũ sự’ và ‘ngũ phúc’. Ngũ sự như:
một là tướng mạo, hai là lời nói, ba là trông, bốn là nghe, năm là suy nghĩ.
Ngũ phúc như: một là thọ, hai là phúc, ba là thông minh, bốn là hiếu đức, năm
là khảo trung mệnh. Qua đó nhận thấy ‘Hồng phạm’ dùng ngũ hành để liên hệ hiện
tượng tự nhiên với hiện tượng xã hội, nhằm thuyết minh thế giới là một chỉnh
thể thống nhất, có trật tự.” Theo truyền thuyết thì
Hồng-Phạm Cửu-Trù là của Vua Vũ nhà Hạ (2100 - 1600 TCN). Như vậy thì, vào thời điểm sớm nhất
được ghi nhận, cách đây hơn 4100 năm, thuật ngữ “ngũ hành” chỉ đơn giản là một
khái niệm về tính chất của 5 loại vật
chất. Quan trọng hơn, nó chỉ là một
loại“ngũ” trong số những cái “ngũ” nằm trong nỗ lực “ngũ hoá” mọi thứ chung
quanh bắt nguồn từ tư duy “thế giới là
một chỉnh thể thống nhất.”
Đến thời Chiến Quốc (475 – 221
TCN), Trâu Diễn đã đem khái niệm ngũ hành ghép vào các triều đại vua chúa. “Ý tưởng của ông đã thành một nếp khẳng định
trong ý thức hệ của giai cấp phong kiến, đến nỗi gây ra cuộc tranh luận về việc
chọn tên "hành" cho triều đại nhà Hán (một triều đại mà học thuyết âm
dương ngũ hành rất thịnh và được đem ứng dựng vào tất cả các công việc hàng
ngày, vào mọi mặt của đời sống xã hội). Lý luận của Trâu Diễn được các danh gia
đương thời hấp thụ và quán triệt vào các lĩnh vực của hình thái ý thức xã hội.”[1] Trên căn bản, ngũ hành vẫn là 5 loại vật
chất.
Đến thời Tây Hán (206 – 23 TCN), Đổng
Trọng Thư (179 – 117 TCN), một nho sĩ uyên bác của thời đại, đưa ra thuyết ngũ
hành có nhiều điểm khác với Trâu Diễn. “Đi
sâu vào hình thái của quy luật ngũ hành, Đổng Trọng Thư cho rằng: trật tự của
ngũ hành bắt đầu từ mộc qua hỏa, thổ, kim, thủy. Khi phân tích quy luật sinh
khắc của ngũ hành, ông đã dựa hẳn vào sự diễn biến của khí hậu bốn mùa. Theo
ông, sở dĩ có sự vận chuyển bốn mùa là do khí âm, dương biến đổi.”[2] Đến thời điểm này thì ngũ hành, khởi thủy từ
khái niệm đơn giản, theo thời gian đã phát triển thành một lý thuyết khá tinh
vi, nhưng trên căn bản ngũ hành vẫn 5 loại vật chất.
Cũng vào thời Tây Hán, Tư Mã
Thiên (145 – 86 TCN), một sử gia lừng danh, đã viết trong Thiên Quan: “Chòm sao Bắc Đẩu là xe trời. Nó vận chuyển ở
trung ương, chỉ huy bốn phương, phân
Âm Dương, định bốn mùa, điều hòa ngũ hành, chi phối mọi sự, chuyển hóa thời
tiết, định độ số trời.”[3] Trong đoạn văn ngắn này Tư Mã Thiên đã nói
tới ngũ hành. Bằng vào ý tứ của tác giả
thì ngũ hành là năm loại vật chất.
Đến thời nhà Đường (618-907) bộ
môn Tử Bình ra đời. Nguồn gốc của Tử
Bình được ghi chép:
[Trích dẫn]
“Tử-bình hay số Bát-tự là một khoa thuật số,
căn cứ vào can chi của giờ ngày tháng năm sinh, để luận ngũ hành hơn kém và
theo khí hòa mà tiên đoán vận mệnh con người. Người phát minh ra khoa xem số
Bát-tự là Lạc Lộc, sống vào đời Đường (618-907), chuyện về lý số học, tiên liệu
việc như thần, người đương thời lúc bấy giờ xưng tụng gọi là Lạc-Lộc Tử, sáng
tác ra bài Lạc-Lộc Tử tam mệnh tiêu tức phú. Sau đó cũng vào đời Đường, Lý-hư
Trung nghiên cứu bài phú trên và cải biến thêm. Đến đời Ngũ-đại (907-960), Từ
Cư-Dịch, tự Tử-Bình, thường xưng là Bồng-Lai Tẩu, quê ở Đông-Hải, ẩn ở núi
Hoa-Sơn cùng với Lã Đồng-Tân, tu tâm dưỡng khí theo đạo thần tiên, rất giỏi về
khoa tinh mệnh, bình chú bài Lạc-Lộc Tử tam mệnh tiêu phú gọi là Lạc-Lộc Tử
tiêu tức phú chú 2 quyển, diễn giải hết lại thuật coi Bát-tự của Lạc-Lộc Tử,
nên đời sau tôn ông làm tổ sư của khoa Bát-tự và gọi môn coi Bát-tự là Tử-Bình.
Đời Tống (960-1279), Từ Đạo-Hồng đem thuật này truyền bá cho mọi người ở
Giang-Nam. Dần dần cho đến ngày nay, khắp nơi ở Trung-Hoa quần chúng đều thích
và biết xem số Tử-Bình.”
[Ngưng trích dẫn]
(Nguồn: Tử Bình Thuyết Minh,
trang 1, tác giả Đỗ Đình Tuấn)
Tử Bình là một bộ môn chuyên ứng
dụng sinh khắc của ngũ hành. Trên căn
bản, ngũ hành vẫn là 5 loại vật chất. Sự
phát triển của môn Tử Bình được ghi chép:
[Trích dẫn]
Để khám phá sự thần bí của vận mệnh, thì từ
xưa đến nay mọi người đã bỏ ra nhiều công sức, viết nên nhiều tác phẩm lớn,
trong đó các tác phẩm quan trọng nhất có Uyên hải tử bình, Tử bình chân thuyên,
Tam mệnh thông hội, Trích thiên tuỷ, Cùng thông bảo giám, Thần phong thông
khảo, Mệnh lý ước ngôn, Tinh bình hội hải, Thiên lý mệnh cảo. Uyên hải tử bình ra đời vào triều đại Tống, là tác phẩm mở
đầu cho mệnh lý tứ trụ. Nó đặt nền móng vững chắc cho mệnh lý học đời sau, tuy
trước khi sách này ra đời thì cũng có tác phẩm nổi tiếng có liên quan nhưng do
thể hệ chưa hoàn thiện, lý luận chưa rõ, phương pháp chưa chuẩn nên bị quên
lãng vào một góc của lịch sử, cho đến nay khi nhắc đến mệnh lý tứ trụ
thì chúng ta chúng ta đặt Uyên hải Tử Bình trên địa vi tôn chủ của mệnh lý học,
không học Uyên hải Tử Bình thì không thể không hiểu bản chất gốc gác của mệnh
lý học, không thể hiểu sự liên quan đến các tác phẩm mệnh lý nổi tiếng đời sau,
không thể nắm bắt triệt để khung lý luận cơ bản của mệnh lý học, không thể phân
biệt mức độ nặng nhẹ, thật giả giữa nhiều quan điểm hay trường phái khác nhau,
không thể nhanh chóng bước vào cổng của mệnh lý học. Nhưng là tác phẩm lý luận
khá hoàn thiện đầu tiên của một môn học vấn thì Uyên hải Tử Bình vẫn có chỗ
chưa hoàn thiện. Quyển sách này không phải là tác phẩm thuộc về một người, cũng
không phải được làm thành sách ở một thời kỳ. Sách này tuy gọi là tác phẩm nổi
tiếng Từ Tử Bình nhưng không phải do ông viết, cho đến tận 300 năm sau khi ông
mất thì Từ Đại Thăng thu thập thành quả luận mệnh của Quỷ Cốc Tử, Lạc Lục Tử,
Từ Tử Bình, biên tập thành hai quyển sách “Uyên hải” và “Uyên nguyên”, thời
Minh thì hai quyển sách này được tái bản lại hợp thành Uyên hải tử bình, đến
những năm Gia Tĩnh thì Khâm thiên giám Lý Khâm bổ sung nó, năm thứ 7 Sùng Trinh
thì lại tiến hành sửa đổi bổ sung, do đó nói “Uyên hải tử bình” là lấy Uyên hải
và Uyên nguyên làm quyển gốc, sau nhiều lần thu thập cải biên mà thành, đây là
một trong những nguyên nhân làm cho nội dung của nó bị rơi vãi, hoặc cũng chính
vì lý do này mà Kỷ Hiểu Lam không đưa sách này vào “Tứ khố toàn thư”, trong “Cổ
kim đồ thư tập thành” cũng không ghi chép.
[Ngưng trích dẫn]
(Nguồn: sách Uyên Hải Tử Bình của
Từ Tử Bình. Trích dẫn bởi thành viên trong diễn đàn Trung Tâm Nghiên Cứu Nhân
Học.)
Mãi cho tới ngày hôm nay, căn bản
của lý thuyết ngũ hành phổ cập vẫn là gói gọn trong “5 loại vật chất cộng với
hai quy luật sinh khắc.”
Trong suốt chiều dài hơn 4100
năm, theo dòng chảy của thời gian, từ khi còn là khái niệm đơn sơ cho tới khi
trở thành một lý thuyết đạt tới tầm cao, có thể nói lý thuyết ngũ hành phổ cập
là một mạch lý thuyết hoàn toàn khác với mạch lý thuyết ngũ hành trong tranh
Ngũ Hổ Hàng Trống, hay nói cho chính xác hơn là khác với mạch lý thuyết ngũ
hành nguyên thủy.
Truy ngược lại dòng chảy của thời
gian, từ lý thuyết ngũ hành trong tranh Ngũ Hổ Hàng Trống vào thời điểm hiện
tại, ngược về thời điểm của bộ môn Tử Vi ra đời, rồi ngược về thời điểm của Ngũ
Hành Nạp Âm Lục Thập Hoa Giáp ra đời, chúng ta có thể thấy một mạch lý thuyết
ngũ hành khác: mạch lý thuyết ngũ hành nguyên thủy.
Về nguồn gốc khoa Tử Vi, căn cứ
theo trích lục của học giả Trần Đại Sỹ, thì trong Tử Vi Kinh tức Tử Vi Chính Nghĩa,
phần Hy Di tiên sinh liệt truyện đã viết:
‘Tiên sinh làu thông Dịch-lý, Thiên-văn, Hình-tượng, Lịch-số, Địa-lý. Nhân thấy
các khoa đều có uyên nguyên với số mạng nhân sinh, do vậy khải ngộ, soạn ra bộ
Tử-vi kinh truyền cho đức Thái-tổ nhà ta.’ Và cũng đã kể lại giai thoại: “Tống Thái-tổ hỏi tiên sinh về khoa Tử vi,
tiên sinh rút ra trong bọc tập sách nhỏ đề Tử-vi chính nghĩa trao cho Thái-tổ
mà tâu rằng: Đây là tất cả những tinh nghĩa về khoa Tử-vi. Bần đạo không
phải là người đặt ra khoa này. Nhân người trước đã nói về Tử-vi, bần đạo nhận
thấy Dịch-lý, Hình tượng Thiên văn, Lịch-số, Địa-lý đều có uyên nguyên với
nhau, mới tước bỏ những rườm rà của người xưa, họp thành khoa Tử-vi mà thần
viết trong tập này. Với khoa Tử-vi, bệ hạ có thể biết kẻ trung, người nịnh,
thời nào tốt, thời nào xấu mà mưu đại sự. Đó là học tới bậc sơ đẳng. Còn học
uyên thâm hơn, có thể nhân số mạng xấu, dùng người nào thì cứu được kẻ bị nạn,
và cứu như thế nào? Thấy kẻ ác thì dùng người nào, cách nào thì trị được, đó là
học tới trung đẳng. Còn học tới chỗ uyên thâm cùng cực, có thể làm đảo lộn cả
thiên hạ, nắm thiên hạ trong bàn tay. Nhưng bần đạo kính dâng bệ hạ một câu,
khi dùng tập sách này, đó là Chữ Nhân, đừng nên dùng vào những việc ác độc, tổn
âm đức.”[4] Tiên sinh họ Trần húy Đoàn tự Hy Di, người
đất Hoa Sơn, ngày nay về phía Nam huyện Hoa Âm tỉnh Thiểm Tây. Thân phụ của tiên sinh là một nhà thiên văn, lịch
số đại tài. Về năm sinh của tiên sinh thì không một thư tịch nào chép. Nhưng căn cứ vào bộ Triệu Thị Minh Thuyết Tử Vi
Kinh, khi tiên sinh yết kiến Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn vào niên hiệu Càn Đức
nguyên niên có nói “Ngô kim nhật thất
thập hữu dư” (tôi năm nay trên 70 tuổi).
Vậy có thể suy ra tiên sinh ra đời vào khoảng 888-893 tức niên hiệu Vạn
Đức nguyên niên đời Đường Huy Tông đến niên hiệu Cảnh Phúc nguyên niên đời
Đường Chiêu Tông. Tiên sinh mất lúc nào cũng không ai rõ. Chỉ biết trong sách Triệu Thị Minh Thuyết Tử
Vi Kinh có viết: “Niên hiệu Khai-bảo thứ
ba (972), Thái-tổ sai sứ đến Hoa-sơn thỉnh tiên sinh, thì đệ tử cáo rằng tiên
sinh ngao du sơn thủy đã ba năm không thấy trở về.” Và cũng theo học giả Trần Đại Sỹ “Hi-Di tiên sinh chết không chỉ định ai làm
chưởng môn, thành ra học trò tiên sinh mạnh ai nấy nghiên cứu, không thống
nhất. Bản chính bộ sách chép tay lại nằm trong hoàng cung, thành ra trong các
đệ tử tiên sinh, người được truyền nhiều thì giỏi, người được truyền ít thì dở
nhưng vẫn tưởng mình được truyền đầy đủ. Năm 1127, quân Kim chiếm phía Bắc nước
Trung-hoa, nhà Tống di cư xuống phía Nam. Khoa Tử-vi cũng theo đó chia làm Bắc-tông
với Nam-tông. Bắc-tông thì theo đúng Hi-Di không sửa đổi gì về các sao, an sao,
chỉ nghiên cứu rộng ra áp dụng giống như hoàng tộc nhà Tống. Còn Nam phái bị
ảnh hưởng của khoa bói dịch, nên đổi rất nhiều.”[5]
Bảng Lục Thập Hoa Giáp là một sản
phẩm có tầm ảnh hưởng rất rộng nhưng nguồn gốc xuất xứ thì lại rất mù mờ. Trong thời thông tin bùng nỗ của ngày hôm nay
mà cũng chỉ có thể tìm được vài ba dòng: “Người
ta cho rằng việc sắp xếp thành LTHG là công của Đại Nạo Thị nhưng việc nạp âm
lại do Quỷ Cốc Tử, tên thật là Vương Hũ, ẩn thân tu dưỡng tại hang quỷ cốc
trong rừng Thanh Lâm vào cuối đời nhà Châu. Sau đó ông Man Xiến Tử tức
Đông Phương Sóc mới nối tiếp sự nghiệp của Quỷ Cốc Tử hoàn thành tượng và danh
từ cho LTHG.”[6] Quỷ Cốc Tử là nhân
vật trong lịch sử cổ đại Trung Quốc. Họ tên không rõ ràng. Được người đời sau
hư cấu nên mang tính huyền bí. Tuy nhiên
theo sách Đông Chu Liệt Quốc thì “tên ông là Vương Hủ, người đời Tấn Bình Công Trung Quốc,
là bạn thân của Tôn Tử và Mặc Địch. Ông là một
nhà tư tưởng, nhà truyền giáo, có rất nhiều học trò theo học, trong số đó có
nhiều người trở nên nổi tiếng thời Xuân Thu
Chiến Quốc. Bốn học trò được nổi tiếng hay được nhắc đến là Tôn Tẫn
người nước Tề, Bàng Quyên
và Trương Nghi người nước Ngụy, Tô Tần
người Lạc Dương (kinh đô nhà Chu). Theo các sách sử, ông là người
thông thạo pháp thuật, kiến thức sâu rộng, sau khi về ở ẩn, ông sống trong một
hang núi gọi là "Quỷ Cốc" (hang quỉ), bởi chỗ đó núi cao, rừng rậm,
âm khí nặng nề, không phải chỗ cho người ở. Tên "Quỷ Cốc Tử" do ông
tự đặt ra cho mình. Người đời thường gọi ông là Quỷ Cốc tiên sinh. ông sống thọ
và được coi là ông tổ của các thuật tướng số, bói toán, phong thuỷ.”[7] Mà Tấn Bình Công thì tên thật là Cơ Bưu, là
vị vua thứ 31 nước Tấn (557 – 532 TCN) một chư hầu
của nhà Chu
trong lịch sử Trung Quốc. Còn Tôn Tẫn là người nước Tề, một quân sư, một nhà chỉ huy quân sự nổi tiếng thời Chiến Quốc. Suy ra Quỷ
Cốc Tử và Bảng Lục Thập Hoa Giáp có mặt vào thời kỳ cuối Xuân Thu (770 - 476 TN) đầu Chiến Quốc (475 – 221 TCN), tức
là vào khoảng 550 TCN tới 450 TCN. Riêng
Đông Phương Sóc (154 - 93 TCN) “là một học giả nổi tiếng ở tỉnh Sơn Đông, cùng thời với Tư Mã Thiên và
dưới thời Hán Vũ Đế Lưu Triệt. Ông là một người kì trí đa mưu, tinh thông văn sử, đã giúp cho Hán Vũ Đế diệt trừ các thế lực đen tối ở hậu cung; đồng thời
đánh bại các chư hầu âm mưu chia rẽ đất nước. Bên cạnh đó, Đông Phương Sóc còn
đưa ra nhiều kế sách được người đời xem như là Y Quốc Mật Phương. Với tài năng
thiên phú, Đông Phương Sóc luôn được Hán Vũ Đế trọng dụng nhưng tuyệt nhiên không được phong chức
đề bạt.”[8]
Ngũ Hành Nạp Âm là một phương
pháp đặc thù dùng để thiết lập Bảng Lục Thập Hoa Giáp. Tuy có rất nhiều người sử dụng bảng LTHG
nhưng có rất ít người biết phương pháp ngũ hành nạp âm cho LTHG. Nền tảng ngũ hành nguyên thủy của nó lại càng
ít người biết hơn, ngay cả danh sư lý số và học giả Trung Hoa.
Mạch lý tuyết ngũ hành nguyên
thủy không dừng lại ở thời điểm ra đời của Ngũ Hành Nạp Âm Lục Thập Hoa
Giáp. Bộ môn Tử Vi lẫn Ngũ Hành Nạp Âm
và Bảng Lục Thập Hoa Giáp đều có nguồn gốc thiên văn và lịch pháp nên nó đòi
hỏi người sáng tạo ra chúng phải có một kiến thức uyên thâm về thiên văn và
lịch pháp. Chính trong Tử Vi Kinh nói
Trần Đoàn tiên sinh cũng xác nhận “Bần
đạo không phải là người đặt ra khoa này. Nhân người trước đã nói về Tử-vi, bần
đạo nhận thấy Dịch-lý, Hình tượng Thiên văn, Lịch-số, Địa-lý đều có uyên nguyên
với nhau, mới tước bỏ những rườm rà của người xưa, họp thành khoa Tử-vi mà thần
viết trong tập này.” Ngay cả tranh
Ngũ Hổ Hàng Trống cũng cho thấy sự quan trọng của yếu tố thiên văn và lịch pháp.
Như vậy, nối kết mạch lý thuyết ngũ hành
nguyên thủy vào mạch thiên văn lịch số để truy ngược về nguồn cũng là điều hợp
lý.
Theo GS Nguyễn Hữu Quang,[9]
Trung Quốc có lịch rất sớm. Khởi đầu là lịch Can Chi rất phôi thai vào thời
Hoàng Đế (lên ngôi năm Giáp Tí 2697 TCN), căn cứ theo các bản đất sét nung còn
lưu trữ tại Đại Học Yên Kinh. Sau đó âm dương
hợp lịch ra đời vào thời vua Nghiêu (lên ngôi năm Giáp Thìn 2357 TCN), căn cứ
theo Kinh Thư trong thiên Nghiêu Điễn.
Lịch này được phỏng theo Quy Lịch của vua Hùng Vương thứ 3, tức Hùng Lân
Lang, căn cứ vào chi tiết trong Thuật Dị Ký 述異記 của sách Thông-chí 通志 (2AL, Q II, Ngũ Đế Kỷ Đệ Nhị,
Chí #35, tr. 224) của sử
gia Trịnh Tiều (1104-1162). Sách chép:
[Trích dẫn]
“Đào Đường chi thế,
Việt Thường quốc hiến thiên tuế thần quy, bối thượng hữu văn, giai khoa đẩu thư,
ký khai tịch dĩ lai, Đế mệnh lục chi, vi chi Quy-lịch. 陶唐之世, 越裳國獻千歲神龜,背上有文,皆科斗書,記開闢以來,帝命錄之,謂之龜歷。”
Dịch: “Đời Đào Đường,
nước Việt Thường dâng thần quy ngàn tuổi, trên lưng có văn, đều là chữ khoa-đẩu
[chữ nòng nọc], chép việc từ thuở khai thiên
tịch-địa đến bấy giờ, Đế sai chép và gọi là Lịch Rùa.”
[Ngưng trích
dẫn]
Sách Cương Mục Tiền Biên của Kim
Lý Tường cũng có chép rằng, “năm 2361
trước Công nguyên, tức năm Mậu Thân thứ 5 đời Ðường Nghiêu Sứ thần Việt Thường
Thị sang chầu dâng rùa thần".
Theo Kim Lý Tường con rùa gọi là thần quy vì rùa to hơn 4 thước ta [khoảng
1.20 mét], trên lưng có chữ nòng nọc [đẩu văn], ghi tổng quát lịch sử cấu tạo
vũ trụ và nhân loại từ thuở ban đầu cho tới đời vua Ðường Nghiêu.[10]
Giáo sĩ
L.Wieger, một nhà thông thái dòng Tên, cũng ghi nhận "người Tầu đã dựa vào cống phẩm rùa thần mà làm ra Qui Lịch” ( L.Wieger,
Hisfoire des croyances religieuses et des opinions philosophiques en Chine,
depnis l’ origine jusqu à nos jonrs./ Lịch Sử Tín Ngưỡng Và Quan Điểm
Triết Học ở Trung Hoa, Từ Khởi Thủy Cho Đến Thời Đại Chúng Ta, trích dẫn
bởi TS. Thái Văn Kiểm).[11]
Cũng trong Kinh Thư, về việc hiến
thần quy, “Ðế Nghiêu nhà Ðường sai Hy
Thúc giữ việc này suy trác khí hậu ở Nam Giao, điều hòa mọi việc thời tiết sớm muộn
về mùa hè... Suy trác cẩn thận để tháng trong Hạ được đúng với thời tiết. Lại
phải xem đến việc thay đổi của người và trời đất.” (Lịch Với Lịch Sử Kinh
Tế Chính Trị Và Chiến Tranh của Nguyễn Thường, Nghiên Cứu Lịch Sử số 3
(262) tháng 5 & 6-1992, tr.51-59).[12]
Với tác giả, câu chuyện tặng rùa thần này là một sự kiện
lịch sử rất quan trọng. Nhưng
trước khi trình bày nó quan trọng như thế nào thì chúng ta trước hết cần xác
định rõ tính chất khả tín của câu chuyện.
Nó thực sự là con rùa lớn hay là
con đồi mồi, một sản vật từ vùng biển của Việt Thường? Chúng ta khó có thể xác
định. Nhưng dầu là rùa hay đồi mồi thì
kích cỡ 1.2 mét không phải là chuyện khó tin.
Rùa ngàn tuổi cũng không phải là chuyện lạ. Ngàn tuổi chỉ là một cách nói đoán rằng con
rùa có tuổi rất cao nhưng không ai biết chắc nó có từ khi nào. Vã lại, kích cỡ và tuổi thọ của rùa cũng đã
được khoa học xác nhận. Xác rùa hồ Hoàn
Gươm hiện đang được giữ tại đền Ngọc Sơn còn lớn hơn và có tuổi thọ cũng gần
một ngàn năm.
[Trích dẫn]
“Rùa Hồ Gươm đã gắn liền với Thăng Long- Đông Đô- Hà Nội,; Rùa đã là di
sản vô giá gắn với những Truyền thuyết Lịch sử-Văn hoá linh thiêng từ mấy ngàn
năm nay. Vậy mà, câu chuyện thật sau đây của những người trong cuộc từ lâu đã
trở thành ‘những kỷ niệm của lịch sử’, nhưng không phải ai cũng biết. . . . Đến
14 giờ cùng ngày, ‘cụ Rùa’ chết. Lãnh đạo thành phố giao cho ngành Công an làm
rõ nguyên nhân cái chết; giao cho Công ty công viên thực hiện bảo quản giữ gìn
tiêu bản Rùa Hồ Gươm để trưng bày cho nhân dân biết. (Hiện nay ‘cụ’ Rùa vẫn còn
được đặt trong tủ kính tại Đền Ngọc Sơn – Hà Nội). Thực hiện khám nghiệm, xác
định “Cụ Rùa” dài 2 mét 10, chiều rộng 1m20, nặng 250 kg, trên mai rùa có một
lỗ thủng tròn, đường kính rộng 3cm, thủng xuống phổi của rùa, gây mất nhiều máu
và có thể là nguyên nhân làm rùa không sống nổi. Kiểm tra bên trong không có
mảnh đạn, đầu đạn nào. Trong bao tử rùa vẫn còn năm con cá mè dài khoảng 40 cm
và mười hòn sỏi đá to bằng trứng gà, trứng vịt- chính là công cụ nghiền thức ăn
để nuôi sống cụ rùa bao năm. Chuyên gia giải phẫu xác định tuổi của rùa thuộc loại
‘Cụ ông’, có độ tuổi trên 900 năm.”
[Ngưng trích
dẫn.]
(Nguồn: Chuyện
Về Rùa Hồ Gươm …Không Phải Ai Cũng Biết. Báo Tổ Quốc. Ảnh: Phạm Quyên.]
Tại sao gọi nó là thần quy? Lớn vóc và sống lâu chưa đủ để gọi là thần,
chỉ đáng với hai chữ đại và thọ mà thôi, do đó giải thích của Kim Lý Tường
không thuyết phục. Có hai giải thích
khác. Một, cho nó là thần là vì nó có
cùng “phả hệ” với Thần Kim Quy trong huyền sử Việt. Hai, cho nó là thần vì trên lưng nó “chép việc từ thuở khai thiên tịch địa đến
giờ,” những việc vô cùng thần diệu, vô cùng cao siêu. So ra có lẽ là giải thích thứ hai hợp lý hơn
cả.
Với diện tích bề mặt trên lưng
của “thần quy” liệu là có thể “chép việc từ thuở khai thiên tịch-địa đến bấy giờ”? Chắc chắn là
được. Bao nhiêu diện tích đó dư chỗ để
chép xuống vài mô hình có khả năng mô tả sự vận hành của trời đất vạn vật từ
thuở khai thiên tịch địa và còn dư chỗ cho một số ghi chú về những mô hình
đó. Giả dụ như, chỉ là giả dụ, trên lưng
rùa ghi một mô hình duy nhất là Việt Dịch Đồ (xem trong hình H9).
H9 - VIỆT DỊCH ĐỒ
Và ghi chú trên lưng rùa chỉ vỏn
vẹn có 67 chữ như sau: “vô cực nhi thái cực, thái cực sinh lưỡng
nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái sinh càn khôn
vạn vật” và “thiên nhất sanh thủy, địa
lục thành chi, địa nhị sanh hỏa, thiên thất thành chi, thiên tam sanh mộc, địa
bát thành chi, địa tứ sanh kim, thiên cửu thành chi, thiên ngũ sanh thổ, địa thập
thành chi.” [từ 67 chữ này mà Việt Dịch Đồ đã hình thành và Việt
Dịch được viết ra để giải thích].
Vào lúc tiếp nhận tặng vật chắc
chắn là vua quan Đào Đường có nhận được một số giải thích về nó từ sứ giả của
Việt Thường. Giả dụ như những lời đó
cũng giống như một đoạn trong Việt Dịch khi nói về Việt Dịch Đồ như sau:
[Trích dẫn]
“. . . một kết hợp trọn vẹn và kỳ ảo’ là vì việc trời, việc
đất, việc người đồng thể hiện. Được cho
là trọn vẹn và kỳ ảo là vì lý của trời, lý của đất, lý của người đồng thể hiện. Được cho là trọn vẹn và kỳ ảo là vì lý sự của
cá nhân, lý sự của tập thể, lý sự của nhân loại đồng thể hiện. Được cho là trọn vẹn và kỳ ảo là vì lý sự vô
hình, lý sự hữu hình, lý sự qui ước đồng thể hiện. Được cho là trọn vẹn và kỳ ảo là vì nó hàm chứa
minh triết của đông phương. Được cho là
trọn vẹn và kỳ ảo là vì nó vạch ra phạm trù đồng quy và hiệp nhất của các giáo
lý đông tây.”
[Ngưng trích
dẫn]
(Nguồn: sách Việt
Dịch của Hà Hưng Quốc.)
Với Việt Dịch Đồ và những dòng ghi
chú cộng với những lời giải thích của sứ giả ngoại giao như giả dụ tuy là không
hiểu ý nghĩa của mô hình ghi trên lưng thần quy nhưng chắc chắn là vua quan Đào
Đường cảm nhận được tầm quan trọng của văn bản trên lưng rùa. Do đó họ có nói “ghi mọi chuyện từ thuở khai thiên tịch địa” và cho con rùa là “thần quy” thì cũng không có gì là quá
đáng. Về bản chất nghiêm trọng của vấn
đề, nó không khác với những chữ “Unidentifying Flying Objects. Classified
information. Top Secret.” được đóng lên bìa hồ sơ trình lên nguyên thủ quốc gia
trong thời đại hôm nay.
Điều mà chúng ta muốn vạch ra ở
đây là nội dung của câu chuyện rất đáng tin.
Nhưng tại sao lại phải quan tâm nhiều
tới chuyện rùa và mức độ khả tín của nó?
Bởi vì nhiều lý do. Thứ nhất, chuyện tặng rùa
cho vua Nghiêu là một động thái chuyển giao khoa học [hiểu biết về thiên văn,
mùa vụ, vân vân] và kỹ thuật [cách làm quy lịch] có tầm chiến lược,
dầu là vua quan Việt Thường có ý thức về hệ quả của việc làm này hay
không. Việc chuyển giao kiến thức và kỹ
thuật ngày đó đã có hệ quả ra sao có lẽ sử gia của chúng ta và của Trung Quốc
vẫn chưa có dịp nhìn lại và đánh giá.
Thứ hai, từ những thông tin trong câu chuyện tặng thần quy này, chúng ta
có thể suy luận ra là văn hóa Việt Thường vào thời điểm đó đã ở một tầm cao,
ít nhất là về mặt thiên văn, lịch pháp, lý số và nông nghiệp. Chỉ ở tầm cao đó mới có đủ khả năng để sáng
tạo ra những sản phẩm như lý thuyết ngũ hành nguyên thủy, Ngũ Hành Nạp Âm, Bảng
Lục Thập Hoa Giáp, Tử Vi và còn những thứ khác nữa chưa nói tới. Thứ ba, từ những thông tin trong câu chuyện
tặng thần quy này, nó cho chúng ta thấy là vào thời điểm đó đã có một luồng
văn hóa ở tận phương nam đi ngược lên phương bắc “khai hóa” Hán tộc,
ít ra là trong lãnh vực thiên văn, lịch pháp, lý số và nông nghiệp. Và, căn cứ vào câu chuyện này thì sản phẩm
trí tuệ của phương nam đã đi ngược lên phương bắc thông qua kênh ngoại
giao. Đồng thời phương bắc đặc biệt quan tâm và tiếp thu sản
phẩm trí tuệ của phương nam.
Nếu không đặc biệt quan tâm thì sẽ không có chuyện “Đế sai chép” và sai Hy Thúc đi nghiên cứu và học hỏi tận nam giao
[phương nam].
Trở lại vấn đề của hai mạch lý
thuyết ngũ hành, chúng ta đã từng nói là có sự tồn tại đồng thời của hai mạch
lý thuyết ngũ hành trong một thời gian dài. Với những gì chúng qua vừa trình bày qua thì
phát biểu trên không phải là không có cơ sở.
Hình H10 ngay phía dưới cho chúng ta thấy rõ hơn về sự tồn tại đồng thời
đó của hai mạch lý thuyết ngũ hành. Nếu chú
ý một chút, chúng ta sẽ thấy mãi tới đời Khổng Trọng Thư thời nhà Hán thì lý
thuyết ngũ hành phổ cập chỉ mới vừa thành hình và ứng dụng nhiều trong khoa Tử
Bình ra đời vào thời nhà Đường (618 – 907) nhưng có lẽ tới thời nhà Tống (960 –
1127) mới đạt được tầm cao của lý thuyết ngũ hành phổ cập, với sự ra đời của Uyên
Hải Tử Bình, trong khi lý thuyết ngũ hành nguyên thủy đã đạt tới tầm cao từ
thời cuối nhà Châu (550 – 450 TCN), căn cứ vào phương pháp ngũ hành nạp âm cho
60 hoa giáp để thiết lập Bảng Lục Thật Hoa Giáp. Nếu kết hợp với thông tin về âm dương hợp lịch
để suy diễn thì lý thuyết ngũ hành nguyên thủy có lẽ cũng đã đạt tới tầm cao
vào thời điểm của Hùng Quốc Vương Lân Lang và lúc đó chắc chắn là kiến thức về
thiên văn của người Hán chưa thể sánh với dân Việt Thường.
H10: Hai Mạch Lý Thuyết Ngũ Hành
Hai mạch lý thuyết cùng tồn tại trong
một thời gian dài thì nhất định phải có sự cạnh tranh. Nhưng cho tới ngày hôm nay có lẽ đây là lần
đầu tiên mà sự hiện hữu của hai mạch lý thuyết ngũ hành được nói tới và phơi
bày cho nên trên thực tế chưa nghe ai nói tới sự cạnh tranh đó. Hay là đã có sự “cạnh tranh/ đấu tranh” rất
lặng lẽ và tinh tế nhưng chúng ta không nhận ra chỉ vì ngũ hành nguyên thủy đã
được mã hóa và che dấu?? Bằng chứng cho
thấy là lý thuyết ngũ hành đã được “ai đó” mã hóa và che dấu từ nhiều năm
qua.
Cuối cùng thì chúng ta phải giải
thích thế nào về nguồn gốc tạo ra sự tồn tại đồng thời của hai dòng lý thuyết
ngũ hành trong nền văn hóa Trung Hoa? Sự
mã hoá và che giấu lý thuyết ngũ hành nguyên thủy trong những sản phẩm chỉ là
phản ứng để duy trì một mạch lý thuyết ngũ hành đã hiện hữu, nó không phải là
nguyên ủy tạo ra sự tồn tại đồng thời của hai mạch lý thuyết ngũ hành.
Thực tình thì chúng ta không biết
rõ! Chúng ta chỉ biết rằng nếu như trên
lưng thần quy mà Việt Thường tặng cho vua Nghiêu trên 4100 năm trước có ghi
chép một văn bản đã chứa một mô hình và những ghi chú tương đương với mô hình
Việt Dịch Đồ và 67 chữ xuất xứ của Việt Dịch Đồ như đã giả dụ, thì chuyện tặng rùa đó
cũng có nghĩa là Việt Thường đã giao vào tay người Hán bản sơ họa của Bát Quái,
Hà Đồ, Âm Dương, Ngũ Hành và Dịch Lý. Điều này cũng có nghĩa là nó chắc chắn đã có
một ảnh hưởng nhất định đối với nền văn hóa Trung Hoa. Thí dụ điển hình, người Hán làm lịch âm dương
theo quy lịch của vua Hùng là ảnh hưởng trực tiếp, đầu tiên, và có sử liệu xác
nhận.
Nhìn dọc theo chiều dài thời
gian, nó cũng thật sự không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy xuất hiện chuyện vua
Hạ Vũ được Lạc Thư và thấy rãi rác thuật ngữ ngũ hành trong Hồng Phạm. Theo tác giả thì ý nghĩa của hai chữ “lạc thư”
lúc đầu chỉ là “sách chép trên mai rùa.” Và phiên bản chép từ “sách chép trên mai
rùa” chính là tập sách do vua Nghiêu sai chép lại từ thần quy mà Việt Thường đã
tặng cho. Vua Hạ Vũ có lạc thư từ “thư
viện của hoàng gia” không có gì là lạ. Nhưng
rồi về sau hai chữ “lạc thư” bị huyền thoại hóa thành “Lạc Thư,” là một đồ hình
trên lưng rùa xuất hiện ở sông Lạc, bởi những học giả Hán thiếu lương thiện
hoặc thiếu hiểu biết.
Tưởng cũng cần giải thích về chữ LẠC. Tra Hán Việt Từ Điển, chúng ta thấy chữ lạc 烙 được giải thích như sau:
(Động) Dùng lửa đốt nóng kim loại
rồi áp lên mình bò, ngựa, đồ vật để làm dấu.
Như vậy thì một văn bản được chép
bằng cách dùng lửa đốt nóng kim loại rồi áp lên mai rùa không phải đích thực là
ý nghĩa của chữ lạc trong lạc thư 洛書 hay
sao? Định nghĩa cho chính xác thì “lạc thư là sách
chép bằng cách dùng lửa đốt nóng kim loại rồi áp lên mai rùa.” Còn nói Lạc Thư là “sách chép trên lưng rùa
thần nổi lên ở sông Lạc lúc vua Hạ Vũ đi trị thủy” là nói theo điển tích đã bị
học giả Hán huyền thoại hóa.
Nếu xác định hai chữ “lạc thư” là
“sách chép bằng cách dùng lửa đốt nóng kim loại rồi áp lên mai rùa” thì chúng
ta càng có thêm yếu tố vững chắc để tiến tới luận cứ là những dấu vết “ngũ hành”
rãi rác trong Hồng Phạm chính là bằng chứng của tin liệu xuất xứ từ trên lưng
rùa Việt Thường tặng vua Nghiêu. Và kiến
thức về ngũ hành vào thời điểm đó của người Hán, như cho thấy trong Hồng Phạm, chỉ
mới là những khám phá rất cạn trên bề mặt.
Hay nói cho rõ hơn là chỉ mới cóp được phần thuật ngữ hoặc hơn một chút
ít so với những gì chứa đựng trong gói tặng phẩm lạc thư. Một ứng dụng dựa trên sự hiểu bớt rất cạn cợt
về mô hình trên lưng rùa thần đã dẫn học giả Hán đi theo hướng phát triển lý
thuyết “ngũ hóa mọi thứ” và sau đó tới thời Chiến Quốc là “ngũ hành hóa” các
triều đại vua chúa. Mãi cho đến thời nhà
Hán thì Đổng Trọng Thư mới mằn mò kết tập kiến thức ngũ hành và lý thuyết hóa
nó thành ra lý thuyết ngũ hành phổ cập như chúng ta biết ngày nay.
Cửu Trù trong thiên Hồng Phạm
cũng là một bằng chứng khác về sự thật của vua Hạ được lạc thư và ảnh hưởng của
nó đối với nền văn hóa Trung Hoa. Chín
trù không gì khác hơn là khi nhìn vào hình ảnh mai rùa gợi lên ý niệm “khoanh
vùng, tổ chức, tạo trật tự” thành 9 khu vực, 9
nhóm, 9 tập họp, 9 cụm, 9 pháp. Nhìn
thấy mai rùa từ đâu? Có thể từ thiên
nhiên mà cũng có thể từ sách và cũng có thể là cả hai. Nhưng nảy sinh khái niệm 9 trù không đơn giản
chỉ vì nhìn thấy mai rùa mà còn cần có yếu tố khác khích động nguồn cảm hứng.
Thân là một ông vua với mối quan tâm trị nước thì nguồn cảm hứng đó đến từ tập sách
năm xưa của vua Nghiêu chép lại theo sách ghi trên mai rùa thần của Việt Thường
tặng cho [trong tập sách xưa đó có lẽ có cả hình mai rùa để minh họa] nghe ra sẽ
hợp lý hơn. Và có lẽ cũng chính vì hai
chữ “rùa thần” đó mà học giả Hán đã tưởng tượng ra chuyện rùa thần xuất hiện
trên sông Lạc. Hay là họ biết rõ nhưng cố
ý dựng chuyện để xóa mất dấu tích văn minh Việt Thường trong nền văn hóa Hán vĩ
đại?
Từ thời điểm Hồng Phạm Cửu Trù ra
đời cho tới thời điểm lý thuyết ngũ hành phổ cập hình thành là một thời gian
rất dài. Giữa hai thời điểm đó thì Hậu
Thiên Bát Quái xuất hiện vào thời đầu nhà Châu và Chu Dịch ra đời. Ảnh hưởng của Chu Dịch đã đóng góp không ít
vào sự hình thành của lý thuyết ngũ hành phổ cập.
Châu Văn Vương là hậu duệ của vua
Hoàng Đế thì chuyện có được Hậu Thiên Bát Quái trong tay rồi từ đó nghiên cứu
và đúc kết thành 64 quái của Chu Dịch cũng không có gì là vô lý. Vã lại Châu Văn Vương được sống ngay trên cái
nôi văn hóa Bách Việt [trong đó những “wikipedia sống” đang lẫn lộn trong cư
dân Bách Việt bám đất định cư tại chỗ] và thừa hưởng một nền kinh tế nông
nghiệp phát triển nhất thời bấy giờ thì với một khối óc thông minh không lẽ Châu
Văn Vương không tiếp thu được ít nhiều di sản văn hóa tồn tại trong cư dân Bách
Việt và nghiệm ra được những điều lý thú trong Hậu Thiên Bát Quái.
Rồi sau đó với kỳ công của Khổng
Tử, Chu Dịch trở thành là Kinh Dịch, là một trong những sản phẩm có tầm ảnh
hưởng rộng lớn nhất trong nền văn hóa Trung Hoa. “Tới
đời Thanh, Tứ khố toàn thư tập hợp được riêng về Dịch có 158 bộ gồm 1761 quyển,
phụ lục 8 bộ, 12 quyển.” [13] Ảnh hưởng của nó kéo dài cho tới ngày nay.
Nhìn lại lịch sử hình thành Kinh Dịch
thì “Dịch của Văn Vương tuy đầy đủ nhưng
cái lý vẫn còn bí ẩn. Năm trăm năm sau, Khổng Tử làm Thoán Tượng, buộc thêm lời
vào ý của Văn Vương, mục đích làm sáng tỏ Dịch của Văn Vương. Từ cuốn sách bói
toán, Văn Vương, Khổng Tử đã chuyển thành cuốn sách có ý nghĩa giáo hóa lớn nên
được xếp vào Lục kinh. Phùng Ỷ viết:: “Văn vương tán quẻ của Bao Hy, diễn số
của cỏ thi, suy việc biến dịch của 9, 6 để sinh ra hào, cho nên quái hào đều
liên hệ với nhau bằng lời, và định tên là Dịch. Từ khi Khổng Tử tán Dịch của
Văn Vương thì các Dịch của Hạ, Thương đều bỏ. Bởi thế, từ Văn Vương, các sách
Dịch mới bắt đầu gọi Dịch, còn trước Văn Vương, chỉ gọi là quái mà thôi. Cho
nên Khổng Tử nói Bào Hy vạch Bát quái chứ không nói làm Dịch.”[14] Và “đến đời Ngụy, Vương Bật chú Dịch mới truất bỏ những lời bàn
về toán số mà phát huy phần triết lý trong kinh Dịch. Do đó Dịch học chia làm
hai phái: một phái chủ trương Dịch học là sách dùng để bói toán, người cầm đầu
là Mạnh Hỷ đời Tây Hán, nổi danh nhất là Trần Đoàn và Thiệu Ung ở đời Tống.
Cũng vào thời gian này, do nhiều trường phái
Dịch ra đời khiến cho loạn thuyết, Dịch chính truyền bị mai một nên Chu Hy đúc
kết Dịch còn sót của dòng chính, sáng tác sách
Châu Dịch bản nghĩa truyền tới ngày nay.” [15]
Lịch sử hình thành Kinh Dịch hé
cho chúng ta thấy một sự thật là trong nền văn hóa Trung Hoa đã từng có giai
đoạn “loạn thuyết.” Mà loạn thuyết là
một cách diễn đạt về thực trạng tồn tại đồng thời của những mạch văn hóa đối
chọi nhau. Và một số mạch văn hoá đã bị mai
một.
Trên cái nền văn hóa đa mạch đó,
hai mạch lý thuyết ngũ hành cùng tồn tại trong một thời gian dài cũng là một sự
thật, như đã được trình bài qua.
Nói tới sự khác biệt giữa lý
thuyết ngũ hành nguyên thủy và lý thuyết ngũ hành phổ cập không thể không nói
tới vai trò của Hà Đồ và Lạc Thư. Dùng
chữ “Lạc Thư” là để phân biệt giữa đồ hình có tên Lạc Thư trong huyền thoại của
người Hán với “lạc thư” là “sách chép bằng cách dùng lửa đốt nóng kim loại rồi
áp lên mai rùa” do Việt Thường tặng vua Nghiêu.
Hai quy luật tương sinh và tương
khắc của lý thuyết ngũ hành nguyên thủy được giải thích trọn vẹn bởi chính mô
hình của lý thuyết ngũ hành nguyên thủy.
Mô hình này có chung nguồn gốc và hoàn toàn khế hợp với mô hình Hà Đồ. Trong cuốn Việt Dịch, tác giả Hà Hưng Quốc đã
chứng minh Hà Đồ, Hậu Thiên Bát Quái, Âm Dương, Ngũ Hành là một tổng thể hợp
nhất. Tất cả sinh ra chung trong một
bọc. Cái bọc đó là một mô hình mẹ, như
có thể thấy trong Việt Dịch Đồ.
Hai quy luật sinh khắc của lý
thuyết ngũ hành phổ cập được giải thích qua hai mô hình sinh khắc của lý thuyết
ngũ hành phổ cập. Quy luật sinh của lý
thuyết ngũ hành phổ cập thì ăn vào mô hình Hà Đồ. Quy luật khắc thì ăn vào mô hình Lạc Thư. Mô hình Hà Đồ và mô hình Lạc Thư được cho là
hai mặt của một đồng tiền chơn lý.
Hà Đồ khác với Lạc Thư ở chỗ là (a)
độ số 2-7 nằm ở phương nam của Hà Đồ lại nằm ở phương tây của Lạc Thư; và (b)
độ số 4-9 ở phương tây của Hà Đồ lại nằm ở phương nam của Lạc Thư.
Làm sao chúng ta có thể dễ dàng
chấp nhận luận cứ hoán vị hai cặp độ số 2-7 và 4-9 để từ Hà Đồ chế ra Lạc Thư rồi
cho đó là hai mặt của một đồng tiền chơn lý?
Chúng ta biết rõ là nằm cùng trong một hệ thời không thì tại một vị trí
trong hệ thời không đó không thể có hai cụm thông tin về vị trí đó trái ngược
nhau mà cả hai được coi là đều đúng được.
Trừ khi độ số 2-7/4-9 của Hà Đồ khác với độ số 2-7/4-9 của Lạc Thư. Nếu khác nhau thì Hà Đồ và Lạc Thư không thể
coi là hai mặt của một đồng tiền trong cùng một hệ thời không. Nếu giống nhau thì không thể tùy tiện hoán vị.
Nói một cách khác, khẳng định một trong
hai phải có cái sai. Mà Hà Đồ thì chắc
chắn đúng do đó cái sai phải là Lạc Thư. Vấn đề của Lạc Thư cũng đã được tác giả Hà Hưng
Quốc phân tích trong bài Xét Nghiệm Giá Trị Của Bộ Môn Huyền Không cũng
như trong cuốn Việt Dịch.
Xét cho tường tận thì có thể nào
vô lý đến mức một sản phẩm như lý thuyết ngũ hành lại cần đến hai mô hình làm
chỗ tựa cho hai quy luật sinh khắc, lại là hai mô hình không thể dung nạp nhau
trong cùng một hệ thời không? Dầu cho
quy luật sinh khắc có được giải thích ăn khớp với Hà Đồ và Lạc Thư đến mức “đẹp
như mơ” đi nữa thì ở tầng lôgic cao hơn toàn bộ lý luận [“Hà Đồ Lạc Thư là 2
mặt của một đồng tiền” + tất cả các hệ luận đã sinh ra từ sự gán ghép này] vẫn
là phi lôgic [vì tính bất dung nạp giữa hai đồ hình]. Xem ra thì sự tồn tại của Lạc Thư rất cần
thiết cho sự hợp lý của lý thuyết ngũ hành phổ cập và ngược lại, dầu là trong
tương quan tồn tại và hợp lý đó có ẩn bên trong một lỗ hỏng lôgic chết
người.
Vì một mình Hà Đồ không đủ làm
chỗ tựa cho cả hai quy luật sinh khắc của lý thuyết ngũ hành phổ cập mà về sau
người ta phải nặn ra mô hình Lạc Thư?
Hay là vì Cửu Trù đã có ảnh hưởng quá sâu đối với nếp suy nghĩ của học
giả thời đó cho nên họ tạo dựng ra Lạc Thư rồi lại tựa vào cả Hà Đồ lẫn Lạc Thư
để nặn ra hai quy luật sinh khắc để hình thành lý thuyết ngũ hành phổ cập?
Quanh đi quẩn lại thì chỉ là nảy
sinh thêm câu hỏi mà không có đáp án.
Điều mà chúng ta có thể khẳng định được là trên thực tế cả hai mạch lý
thuyết ngũ hành cùng tồn tại, và có lúc hòa quyện vào nhau, cùng giúp để tạo nên
một thế giới văn hóa diễm ảo của phương đông mà người Trung Hoa đặc biệt tự hào. Và, điều mà chúng ta có thể khẳng định được là
nền văn hoá Hán có cội nguồn từ nền văn hóa Việt cổ.
[1] Nguồn:
Sự Hình Thành Và Phát Triển Học Thuyết Âm Dương Ngũ Hành Trong Tư Tưởng Cổ Đại
Trung Quốc của Trần Thị Huyền.
[2] Nguồn:
Sự Hình Thành Và Phát Triển Học Thuyết Âm Dương Ngũ Hành Trong Tư Tưởng Cổ Đại
Trung Quốc của Trần Thị Huyền.
[3] Nguồn: Sử
Ký, Phần Thư, Chương Thiên Quan, số 27. Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ dịch.
[5] Nguồn: Lịch Sử Khoa Tử Vi Trung Hoa và Việt Nam
Trích lục của Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ.
[6] Nguồn 1: sách
Tử Bình Chân Thuyên của Quảng Văn. Nguồn
2: Khảo Luận Về Lục Thập Hoa Giáp, đăng 19/09/2009 trên www.quangkhoi.net
[7] Nguồn:
Wikipedia
[8] Nguồn:
Wikipedia
[9] Nguồn Hán Việt Dịch Sử Lược c ủa GS Nguyễn Hữu Quang,
Nguyên Giảng Viên Vật Lý Chuyên về Cơ Học Định Đề (Axiomatic Mechanics, a branch of Theoretical
Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài Gòn trước năm 1975.
tại Đại Học Khoa Học Sài Gòn trước năm 1975.
[10] Nguồn: Cỗi Nguồn Của Văn
Minh Đất Nước Việt Nam của GS Cao Thế Dung.
GS trích dẫn từ Cương Mục, bản dịch - Bộ VHGD, Sài Gòn 1965, tr.31.
[14] Nguồn: Bàn Lại Lịch Sử Hình Thành
Kinh Dịch của Hà Văn Thùy. Phùng
Ỷ. Hậu Trai Dịch học. Tứ khố toàn thư trân bản. Thương vụ ấn quán Thương Hải.
Dịch tập chú, Kinh thượng thiên, quyển 1, trang 1. (Dẫn theo Nguyễn Hữu Lương
trang 109).
No comments:
Post a Comment