trở về: Giải Mã Những Bí Ẩn Trong Tử Vi - bài 5
Giải Mã Bí Ẩn 6 Xung, 6 Hợp, 6 Hại
Xung, hợp và hại là những khái niệm được
ứng dụng rất rộng trong các môn lý số.
Môn Tử Vi cũng không ngoại lệ. Đa
số người chấp nhận và sử dụng chúng một cách “không thắc mắc.” Nhưng có những người nhìn vào và đặt câu hỏi
đại loại như là “Chúng từ đâu mà có? Dựa vào nguyên lý nào mà chúng được hình
thành? Tại sao cặp này lại không theo
lôgic như những cặp khác? . . .” thì người ta bắt đầu nhận ra là còn có rất nhiều
điều “bí ẩn” xung quanh những cái dường như rất quen thuộc, rất thông dụng và .
. . vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng.
A. LỤC XUNG
Lục Xung gồm 6 cặp địa chi xung nhau trong từng cặp một. 6 Xung gồm có:
1)
Tí Ngọ xung nhau
2)
Sửu Mùi xung nhau
3)
Dần Thân xung nhau
4)
Mão Dậu xung nhau
5)
Thìn Tuất xung nhau
6)
Tỵ Hợi xung nhau
H42
Hỏi tại sao Hợi Tỵ xung nhau thì được
giải thích là vì Âm Thủy của Hợi “khắc” Âm Hỏa của Tỵ. Hỏi tại sao Tí Ngọ xung
nhau thì được giải thích là vì Dương Thủy của Tí “khắc” Dương Hỏa của Ngọ. Hỏi
tại sao Dần Thân xung nhau thì được giải thích là vì Dương Kim của Thân “khắc” Dương
Mộc của Dần. Hỏi tại sao Mão Dậu xung
nhau thì được giải thích là vì Âm Kim của Dậu khắc Âm Mộc của Mão. Theo sự giải thích, nó rõ ràng là khái niệm “xung”
được thành lập dựa trên nguyên lý “khắc” của lý thuyết ngũ hành [dù là có âm
dương kèm theo]. Và điều này có thể nhìn
thấy ngay trên cung bàn của Tử Vi.
H43
Với những trả lời trên dường như tất cả
được giải thích một cách ổn thỏa đâu vào đấy.
Có điều là nếu căn cứ theo lý
thuyết ngũ hành phổ cập thì 5 hành tương đương nhau và 5 hành lại liên tục theo
nhau trên “lộ trình SINH” thì làm gì có được Thổ nằm ở trung ương để phân phối
ra bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi? Xem vòng tròn bên trái trong hình H43 thì rõ. Mà không có hành Thổ ở trung ương để phân phối
ra 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi thì làm gì có Thổ ở Tứ Quí để làm trung gian cho hành
khí chuyển dịch từ Mộc sang Hỏa,
từ Hỏa sang Kim, từ Kim sang Thủy rồi từ Thủy sang Mộc. Mà không có Thổ ở 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi thì
làm gì có Thổ đới Hỏa, đới Kim, đới Thủy, đới Mộc để mà Thìn Tuất xung nhau và
Sửu Mùi xung nhau?
Hơn nữa, mỗi cặp “xung nhau” chứ không
phải xung một chiều. Thí dụ như Tí Ngọ
xung nhau có nghĩa là Tí xung Ngọ và đồng thời Ngọ cũng xung Tí. Mà nếu là vậy thì “lộ trình KHẮC” của lý thuyết
ngũ hành phổ cập chỉ có thể giải thích được một chiều chứ làm sao có thể giải
thích được chiều ngược lại để mà nói là xung nhau. Thí dụ điển hình là chiều Tí
xung Ngọ thì đúng là do Thủy khắc Hỏa theo lý thuyết ngũ hành phổ cập nhưng chiều
ngược lại Ngọ xung Tí thì làm gì có lộ trình Hỏa khắc Thủy [chỉ có lộ trình Hỏa
khắc Kim] trong lý thuyết ngũ hành phổ cập để mà thành lập cái gọi là xung. Xem ngôi sao 5 cánh trong hình H43 thì rõ.
Chưa hết, nếu như có khiên cưỡng dùng
lý lẽ “khắc xuất” và “khắc nhập” để lý giải đi nữa thì tính chất của khắc xuất
cũng sẽ không tương đồng với tính chất khắc nhập. Điều này có nghĩa là sự vận dụng lý lẽ khắc
xuất và khắc nhập cũng không thể giúp để thành lập một cách nghiêm túc cái gọi
là “xung nhau” [Tí xung Ngọ không đồng với Ngọ xung Tí thì không thể nói Tí Ngọ
xung nhau].
Như vậy thì, không khó để chúng ta nhận
ra là, lý thuyết ngũ hành phổ cập không đủ khả năng để
giải thích sự phân bố của ngũ hành trên 12 cung bàn của Tử Vi một cách thuyết
phục. Và cũng không đủ khả năng giải
thích Lục Xung một cách thỏa đáng.
Hay nhìn vấn đề và trình bày một cách khác, chúng ta có thể cho là 12
cung bàn của Tử Vi và Lục Xung không được thành lập trên nền tảng của lý thuyết
ngũ hành phổ cập.
Nếu chúng không được thành lập trên nền
tảng của lý thuyết ngũ hành phổ cập thì chúng được thành lập trên nền tảng của
lý thuyết nào? Câu trả lời rất đơn giản. Cũng như đã từng trả lời trước đây, chúng được
thành lập trên nền tảng của lý thuyết ngũ hành nguyên thủy. Nhìn vào vế bên phải của hình H43 chúng ta sẽ
nhận ra ngay sự thật này mà không cần nói thêm một lời nào. Tuy nhiên để làm cho sáng tỏ hơn, chúng ta
cũng nên có sự giải thích.
Như đã từng trình bày trước đây, hành
Thổ trong lý thuyết ngũ hành nguyên thủy là một hành trội hơn và đứng vai trò
trung gian cho 4 hành còn lại. Chỉ có 4
hành Thủy Mộc Hỏa Kim là tương tác nhau theo nguyên lý sinh khắc. Đối lập nhau là khắc. Kim khắc Mộc tương đồng với Mộc khắc Kim,
không hành nào trội hơn. Hay nói cách
khác là Kim Mộc khắc nhau. Đó là “tương
khắc” đúng nghĩa. Thủy Khắc Hỏa tương đồng
với Hỏa khắc Thủy, không hành nào trội hơn.
Hay nói cách khác là Thủy Hỏa khắc nhau.
Đó là “tương khắc” đúng nghĩa. Bên
cạnh nhau là sinh, dầu là theo chiều kim đồng hồ hai ngược kim đồng hồ. Theo chiều kim đồng hồ: Thủy sinh Mộc, Mộc
sinh Hỏa, Hỏa sinh Kim, Kim sinh Thủy.
Ngược chiều kim đồng hồ: Kim sinh Hỏa, Hỏa sinh Mộc, Mộc sinh Thủy, Thủy
sinh Kim. Mộc sinh Hỏa cũng tương đồng với
Hỏa sinh Mộc, không chiều nào trội hơn chiều nào. Đó là “tương sinh” đúng nghĩa. Còn Thổ đứng ở trung ương làm trọng tâm. Khi phân tán ra ngoài và đứng giữa hai hành
khác thì làm trung gian cho sự chuyển hóa.
Xem hình vòng tròn bên phải của H43.
Chính cái vai trò rất đặc biệt của hành Thổ và cái cấu trúc “Thổ ở tâm,
4 hành bên ngoài” của lý thuyết ngũ hành nguyên thủy mới có được cái nền tảng để
từ đó thành lập 12 cung bàn của Tử Vi như chúng ta thấy trong hình H42, hay ít
ra mới có được cái cơ sở để giải thích một cách hợp lý và nghiêm túc cái cấu
trúc và sự phân bố ngũ hành trên 12 cung bàn của Tử Vi. Lý thuyết ngũ hành phổ cập không thể. Và cũng chính cái nguyên lý “khắc nhau” hay
“tương khắc” của lý thuyết ngũ hành nguyên thủy mới là nền tảng để thành lập 6
Xung, hay ít ra mới là nền tảng để giải thích một cách hợp lý tính cách “xung
nhau” của 6 cặp địa chi. Lý thuyết ngũ
hành không thể.
Chúng ta sẽ có cơ hội để đi vào chi tiết
làm sáng tỏ hơn nữa về sự liên quan chặt chẽ giữa cấu trúc hình của lý thuyết
ngũ hành nguyên thủy [hình vòng tròn bên phải của H43] với cấu trúc hình của 12
cung bàn của Tử Vi trong phần Giải Mã bí ẩn
12 Cung Bàn Của Tử Vi.
B. LỤC HỢP
Lục Hợp gồm 6 cặp địa chi hợp nhau theo từng cặp một. 6 Hợp gồm có:
1)
Tí Sửu hợp nhau
2)
Dần Hợi hợp nhau
3)
Mão Tuất hợp nhau
4)
Thìn Dậu hợp nhau
5)
Tỵ Thân hợp nhau
6)
Ngọ Mùi hợp nhau
H44
Giải
thích về Lục Hợp, Đỗ Đình Tuấn viết:
“Theo sự xếp
đặt địa chi trong 12 cung : Tý Sửu ở dưới làm đất hợp thổ. Ngọ ở trên làm mặt
trời (Thái-dương), Mùi làm mặt trăng (Thái-âm) hợp hỏa, mặt trời mặt trăng ở
trên làm trời. Thiên khí của trời tỏa xuống, địa khí của đất bốc lên tạo ra 4
mùa Xuân Hạ Thu Đông. Dần Hợi ở dưới ngang nhau hợp Xuân mộc. Xuân rồi đến Hạ,
nên Mão Tuất hợp hạ hỏa. Hạ đến Thu, nên tiến lên Thìn Dậu hợp Thu kim. Thu đến
Đông, nên Tỵ Thân hợp Đông thủy.” (Trích: Tử Bình Thuyết Minh, Trang 7).
Có
lẽ nó cũng không quá đáng để người viết [tôi] vỏ đoán là Đỗ Đình Tuất chỉ chép
lại sự giải thích này từ trong một Hán thư nào đó chứ không phải là của riêng
ông. Thực tình mà nói có lẽ mức độ “hí lộng”
của đoạn văn trên đã đến mức khó có đối thủ.
Có
một giải thích khác thì cho rằng mỗi cặp hợp nhau là do yếu tố âm dương. Thí dụ như Dần Hợi hợp nhau là vì Dần thuộc Dương
còn Hợi thuộc Âm. Sách Tam Mệnh Thông Hội
viết “hễ hoà hợp, âm dương tương hoà, thì
khí âm khí dương hợp nhau. Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất là 6 dương chi gặp Sửu,
Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi 6 âm chi. Một âm một dương hoà hợp với nhau.”
Có
hai trở ngại với giải thích này. Thứ nhất,
so sánh trong nhóm, nếu âm dương là yếu tố để thiết lập cho cái gọi là “hợp”
thì tại sao lại chỉ chọn 6 cặp hợp theo kiểu này mà không là kiểu khác [hợp
hàng dọc hay hợp chéo hay hợp với tất cả thay vì hợp hàng ngang] trong khi có đến
6 Âm và 6 Dương phân bổ trên cung bàn?
Thứ hai, so sánh ngoài nhóm, xung được thiết lập dựa trên yếu tố ngũ
hành còn hợp lại được thiết lập dựa trên yếu tố âm dương và chỉ dựa trên yếu tố
âm dương là thế nào? Giải thích này thiếu
sự nhất quán và xuyên suốt. Trong sách
Linh Khu có viết:
“Hoàng Đế hỏi
Thiếu Sư: Ta thường nghe nói về con người, có người thuộc Âm, có người thuộc
Dương, Người như thế nào thì thuộc Âm ? Người như thế nào thuộc Dương ?’. Thiếu Sư đáp: Trong khoảng Thiên Địa, bên
trong lục hợp, tất cả không tách khỏi ngũ hành, con người cũng ứng theo đó,
nhưng cũng không phải chỉ có 1 mẫu người Âm, 1 mẫu người Dương mà thôi, nó chỉ
được nói 1 cách giản lược mà thôi, lời nói không thể diễn tả rõ rệt được.”
(Trích: Linh Khu, Thiên 72: Thông Thiên)
Tách
rời âm dương ra khỏi ngũ hành để có được một giải thích “khả dĩ” là một nỗ lực
khiên cưỡng, ít ra là trong phạm trù của môn Tử Vi.
Google
chữ “lục hợp” chúng ta có trên 390 ngàn kết quả. Xới tung tất cả để tìm được một giải thích là
lục hợp được thành lập trên căn bản nào thì khó hơn tìm vàng. Trong số vài ba giải thích tìm thấy, không có
được một giải thích nghiêm túc [ít ra là trong quá trình tìm kiếm của người viết]. Tại sao một vấn đề đơn giản như vậy lại không
thể tìm được lời giải thích? Điều này nó
nói lên cái gì?
Với
người viết thì đó là vì lý thuyết ngũ hành phổ cập đã thất bại một cách thảm hại
trong vấn đề Lục Hợp. Nó không thể nào
giải thích được sự “hợp nhau” của từng cặp địa chi trong Lục Hợp.
Nếu
vận dụng ngũ hành phổ cập để lý giải thì làm sao có thể thành lập được sự tương
sinh giữa hai hành Thổ Mộc của cặp Mão Tuất và giữa hai hành Thổ Thủy của cặp
Tí Sửu? Nếu vận dụng ngũ hành phổ cập để
lý giải thì làm sao có thể thành lập được sự tương sinh giữa hai hành Hỏa Kim ở
hai cặp Thìn Dậu và Tỵ Thân? Mà đã
không thành lập được sự tương sinh giữa hai hành trong mỗi cặp thì không thể
thành lập sự “hợp nhau” cho mỗi cặp. Cho
nên, từ không thể giải thích mới dẫn tới chỗ không có giải thích, ngoại trừ một
vài cố gắng khiên cưỡng.
Nếu
lý thuyết ngũ hành phổ cập đã không thể giải thích được vậy thì lý thuyết ngũ
hành nguyên thủy có giải thích được không? Dĩ nhiên là được!
Nhìn
vào hình H44 chúng ta sẽ thấy:
·
Tí Sửu hợp nhau là
vì Dương Thủy của Tí “sinh” Âm Mộc của Sửu [Thổ đới Mộc] và ngược lại.
·
Dần Hợi hợp nhau
là vì Âm Thủy của Hợi “sinh” Dương Mộc của Dần và ngược lại.
·
Mão Tuất hợp nhau
là vì Dương Thủy của Tuất [Thổ đới Thủy] “sinh” Âm Mộc của Mão và ngược lại.
·
Thìn Dậu hợp nhau
là vì Dương Hỏa của Thìn [Thổ đới Hỏa] “sinh”
Âm Kim của Dậu và ngược lại.
·
Tỵ Thân hợp nhau
là vì Âm Hỏa của Tỵ “sinh” Dương Kim của Thân và ngược lại.
·
Ngọ Mùi hợp nhau
là vì Dương Hỏa của Ngọ ‘sinh” Dương Kim của Mùi [Thổ đới Kim] và ngược lại.
Lý
thuyết của ngũ hành nguyên thủy rút ra từ cuốn sách Việt Dịch của Hà Hưng Quốc
được gói gọn trong hình bên phải của H45.
Nó đã được giải thích ở phần Lục Xung cho nên không cần phải nhắc lại.
H45
C. LỤC HẠI
Lục Hại gồm 6 cặp địa chi hại nhau theo từng cặp một. 6 Hại gồm có:
1) Tí Mùi hại nhau;
2) Ngọ Sửu hại nhau;
3) Dậu Tuất hại nhau;
4) Thìn Mão hại nhau;
5) Thân Hợi hại nhau; và
6) Tỵ Dần hại nhau.
H46
Lục
Hại được giải thích: “Hại do hợp và xung
tạo ra. Thí dụ: Tí Sửu hợp mà Mùi xung Sửu,
vậy Mùi làm hại Tí. Tí Sửu hợp, Ngọ xung
Tí, vậy Ngọ làm hại Sửu. Tương tự có Tí
Mùi hại nhau, Sửu Ngọ hại nhau, dần Tỵ hại nhau, Mão Thìn hại nhau, Thân Hợi hại
nhau, Dậu Tuất hại nhau..” (Tử Bình Thuyết Minh của Đỗ Đình Tuấn, trang 8-9).
Chiếu
theo lôgic này thì chúng ta có thể trình bày như sau:
1)
Tí Mùi hại nhau
vì (a) Tí Sửu hợp, Mùi xung Sửu, vậy Mùi hại Tí; và ngược lại (b) Ngọ Mùi hợp,
Tí xung Ngọ, vậy Tí hại Mùi.
2)
Ngọ Sửu hại nhau
vì (a) Tí Sửu hợp, Ngọ xung Tí, vậy Ngọ hại Sửu; và ngược lại (b) Ngọ Mùi hợp,
Sửu xung Mùi, vậy Sửu hại Ngọ.
3)
Dậu Tuất hại nhau
vì (a) Mão Tuất hợp, Dậu xung Mão, vậy Dậu hại Tuất; và ngược lại (b) Thìn Dậu
hợp, Tuất xung Thìn, vậy Tuất hại Dậu.
4)
Thìn Mão hại nhau
vì (a) Mão Tuất hợp, Thìn xung Tuất, vậy Thìn hại Mão; và ngược lại (b) Thìn Dậu
hợp, Mão xung Dậu, vậy Mão hại Thìn.
5)
Thân Hợi hại nhau
vì (a) Dần Hợi hợp, Thân xung Dần, vậy Thân hại Hợi; và ngược lại (b) Tỵ Thân hợp,
Hợi xung Tỵ vậy Hợi hại Thân.
6)
Tỵ Dần hại nhau
vì (a) Dần Hợi hợp, Tỵ xung Hợi, vậy Tỵ hại Dần; và ngược lại (b) Tỵ Thân hợp,
Dần xung Thân, vậy Dần hại Tỵ.
Hại
qua hại lại [hai chiều] cho nên nói là hại nhau. Vận dụng chữ “hợp” và chữ “xung” để giải
thích Lục Hại có cái bất lợi là nó đã che lấp yếu tố ngũ hành trong việc thành
lập chữ “hại.” Chúng ta cần lột bỏ cái lớp
che này để thấy chân tướng của nó cho rõ hơn.
Trước hết là lột bỏ chữ “xung” và chữ “hợp” để thấy chữ “sinh” và chữ
“khắc” mà không vội quan tâm đến ngũ hành, chỉ quan tâm đến lôgic. Sau khi đã xác lập cung nào sinh cung nào và
cung nào khắc cung nào đúng với lôgic hợp xung tạo hại xong rồi thì chúng ta mới
lột bỏ chữ “cung” để thay vào đó là “ngũ hành” của “cung”. Sau cùng chúng ta mới bàn tới lý thuyết ngũ
hành.
Như
chúng ta đã biết:
1)
không thành lập
được “tương sinh” giữa hai cung thì
không thể thành lập được “tương hợp” giữa hai cung đó;
2)
không thành lập
được “tương khắc” giữa hai cung thì không
thể thành lập “tương xung” giữa hai cung
đó; và
3)
không thành lập
được “tương xung” và “tương khắc” giữa ba cung liên hệ thì không thành lập được
“tương hại” giữa hai trong số ba cung đó.
Ngược
lại, một khi:
1)
Đã xác lập “tương
hại” giữa 2 cung thì cũng đương nhiên xác lập “tương xung” và “tương hợp” của 3
cung liên hệ;
2)
Đã xác lập “tương
xung” giữa hai cung thì cũng đương nhiên xác lập “tương khắc” giữa hai cung đó;
và
3)
Đã xác lập “tương
hợp” giữa hai cung thì cũng đương nhiên các lập “tương sinh” giữa hai cung đó.
H47
Hay
nói cách khác, một khi đã xác lập “C hại B” tức là đồng thời xác lập “A sinh B”
và xác lập “C khắc” A.” Tương tự, một
khi đã xác lập “B hại C” tức là đồng thời xác lập “D sinh C” và xác lập “B khắc
D.” Xem H47.
Như
vậy:
1)
Tí Mùi hại nhau
thì (a) Sửu sinh Tí, Mùi khắc Sửu, vậy Mùi hại Tí;
và ngược lại (b) Ngọ sinh Mùi, Tí khắc Ngọ, vậy Tí hại
Mùi. Xem H47A.
H47A
2) Ngọ Sửu hại nhau thì (a) Tí sinh Sửu, Ngọ khắc
Tí, vậy Ngọ hại Sửu; và ngược lại (b) Mùi sinh Ngọ,
Sửu khắc Mùi, vậy Sửu hại Ngọ. Xem H47B.
H47B
3) Dậu Tuất hại nhau thì (a) Mão sinh Tuất, Dậu khắc
Mão, vậy Dậu hại Tuất; và ngược lại (b) Thìn sinh
Dậu, Tuất khắc Thìn, vậy Tuất hại Dậu. Xem H47C.
4) Thìn Mão hại nhau vì (a) Tuất sinh Mão, Thìn khắc
Tuất, vậy Thìn hại Mão; và ngược lại (b) Dậu
sinh Thìn, Mão khắc Dậu, vậy Mão hại Thìn. Xem
H47D.
H47D
5) Thân Hợi hại nhau vì (a) Dần sinh Hợi, Thân khắc
Dần, vậy Thân hại Hợi; và ngược lại (b) Tỵ sinh
Thân, Hợi khắc Tỵ vậy Hợi hại Thân. Xem H47E.
H47E
6) Tỵ Dần hại nhau vì (a) Hợi sinh Dần, Tỵ khắc Hợi,
vậy Tỵ hại Dần; và ngược lại (b) Thân sinh Tỵ,
Dần khắc Thân, vậy Dần hại Tỵ. Xem H47F.
H47F
Bây giờ chúng ta xé tới liên hệ ngũ hành của từng
trường hợp một, và xét trong tương quan với lý thuyết ngũ hành phổ cập và lý
thuyết ngũ hành nguyên thủy. Một lần nữa
cũng xin nhắc lại là sự khác nhau giữa hai lý thuyết ngũ hành được tóm gọn
trong hình H48.
H48
Trường Hợp Tí Mùi Hại Nhau:
- Trong liên minh Tí Sửu, Mộc của Sửu [Thổ đới Mộc] sinh Thủy của Tí. Hậu thuẩn của Sửu làm tăng sức mạnh của Tí. Mùi xung Sửu là vì Kim của Mùi [Thổ đới Kim] khắc Mộc của Sửu [Thổ đới Mộc]. Sửu bị Mùi đánh thẳng mặt làm cho nó không còn đủ sức để giúp đồng minh Tí, vì vậy mới nói Mùi hại Tí. Xem H49, hình bên phải.
Xét
những liên hệ sinh khắc, nói “Mộc sinh Thủy” [trong phần A] và nói “Hỏa sinh
Kim” [trong phần B] là điều không thể nào chấp nhận được, chiếu theo lý thuyết
ngũ hành phổ cập. Nhưng cổ nhân sáng tạo
ra Lục Hại đã nói thế, không phải người viết nói [đó cũng là lý do tại sao người
viết phải tốn nhiều thời gian cẩn thận thiết lập từng bước một để chứng minh luận
điểm của mình]. Như vậy thì chỉ có thể
đi đến một trong hai kết luận là (1) Lục Hại hoàn toàn sai hoặc (2) Lý thuyết
ngũ hành phổ cập không đủ khả năng giải thích.
Bây giờ nếu chúng ta nhìn lại H48, hình bên phải, chúng ta sẽ nhận ra rằng
“Mộc sinh Thủy” và “Hỏa sinh Thủy” hoàn toàn hợp lý với lý thuyết ngũ hành
nguyên thủy bởi vì nguyên lý tương sinh [hai chiều] của nó. Hay nói một cách khác, lý thuyết ngũ hành
nguyên thủy có khả năng giải thích ngũ hành sinh khắc trong Lục Hại trong khi
lý thuyết ngũ hành phổ cập hoàn toàn bất lực.
Trường Hợp Ngọ Sửu Hại Nhau:
- Trong liên minh Tí Sửu, Thủy của Tí sinh Mộc của Sửu [Thổ đới Mộc]. Hậu thuẩn của Tí làm tăng sức mạnh của Sửu. Ngọ xung Tí là vì Hỏa của Ngọ “khắc” Thủy của Tí. Tí bị Ngọ đánh thẳng mặt làm cho nó không còn đủ sức để giúp đồng minh Sửu, vì vậy mới nói Ngọ hại Sửu. Xem H50, hình bên phải.
H50
Xét
những liên hệ sinh khắc, nói “Hỏa khắc Thủy” [trong phần A] hay nói “Kim sinh Hỏa”
và “Mộc khắc Kim” [trong phần B] đều là “không
đúng” với kinh điển của lý thuyết ngũ hành phổ cập. Chiếu theo nguyên lý sinh khắc của lý thuyết
ngũ hành phổ cập thì chỉ có Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim và Kim khắc Mộc. Nhưng rõ ràng là liên hệ ngũ hành của Lục Hại
đã xác lập “Hỏa khắc Thủy” và “Kim sinh Hỏa” và “Mộc khắc Kim” [không phải người
viết xác lập]. Lý thuyết ngũ hành nguyên
thủy cũng hoàn toàn đồng ý với Lục Hại. Nếu
chấp nhận Lục Hại thì rõ ràng là lý thuyết ngũ hành phổ cập đã không đủ khả
năng để giải thích Lục Hại và chỉ có lý thuyết ngũ hành nguyên thủy mới làm được
điều đó.
Trường Hợp Dậu Tuất Hại Nhau:
- Trong liên minh Mão Tuất, Mộc của Mão sinh Thủy của Tuất [Thổ đới Thủy]. Hậu thuẩn của Mão làm tăng sức mạnh của Tuất. Dậu xung Mão là vì Kim của Dậu khắc Mộc của Mão. Mão bị Dậu đánh thẳng mặt làm cho nó không còn đủ sức để giúp đồng minh Tuất, vì vậy mới nói Dậu hại Tuất. Xem H51, hình bên phải.
H51
Xét
những liên hệ sinh khắc, nói “Mộc sinh Thủy” [trong phần A] hay nói “Hỏa sinh
Kim” và “Hỏa khắc Thủy” [trong phần B] đều là không thấy trong kinh điển của lý
thuyết ngũ hành phổ cập. Chiếu theo
nguyên lý sinh khắc của lý thuyết ngũ hành phổ cập thì chỉ có Thủy sinh Mộc, Hỏa
khắc Kim và Thủy khắc Hỏa. Nhưng rõ ràng
là liên hệ ngũ hành của Lục Hại đã xác lập “Mộc sinh Thủy” và “Hỏa sinh Kim” và
“Hỏa khắc Thủy” [không phải người viết xác lập]. Hơn nữa lý thuyết ngũ hành nguyên thủy cũng
hoàn toàn đồng ý với Lục Hại. Nếu chấp
nhận Lục Hại thì rõ ràng là lý thuyết ngũ hành phổ cập đã không đủ khả năng để
giải thích Lục Hại. Và chỉ có lý thuyết
ngũ hành nguyên thủy mới làm được điều đó.
Trường Hợp
Thìn Mão Hại Nhau:
- Trong liên minh Mão Tuất, Thủy của Tuất [Thổ đới Thủy] sinh Mộc của Mão. Hậu thuẩn của Tuất làm tăng sức mạnh của Mão. Thìn xung Tuất là vì Hỏa của Thìn [Thổ đới Hỏa] khắc Thủy của Tuất. Tuất bị Thìn đánh thẳng mặt làm cho nó không còn đủ sức để giúp đồng minh Mão, vì vậy mới nói Thìn hại Mão. Xem H52, hình bên phải.
- Trong liên minh Thìn Dậu, Kim của Dậu sinh Hỏa của Thìn [Thổ đới Hỏa]. Hậu thuẩn của Dậu làm tăng sức mạnh của Thìn. Mão xung Dậu là vì Mộc của Mão khắc Kim của Dậu. Dậu bị Mão đánh thẳng mặt làm cho nó không còn đủ sức để giúp đồng minh Thìn, vì vậy mới nói Mão hại Thìn. Xem H52, hình bên trái.
H52
Xét
những liên hệ sinh khắc, rõ ràng là Lục Hại đã xác lập “Hỏa khắc Thủy” [trong
phần A] và “Kim sinh Hỏa” cùng “Mộc khắc Kim” [trong phần B]. Chiếu theo nguyên lý sinh khắc của lý thuyết
ngũ hành phổ cập thì chỉ có Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim và Kim khắc Mộc. Tuy nhiên lý thuyết ngũ hành nguyên thủy lại
hoàn toàn đồng ý với Lục Hại. Nếu chấp
nhận Lục Hại thì rõ ràng là lý thuyết ngũ hành phổ cập đã không đủ khả năng để
giải thích. Và chỉ có lý thuyết ngũ hành
nguyên thủy mới làm được điều đó.
Trường Hợp Thân Hợi Hại Nhau:
- Trong liên minh Dần Hợi, Mộc của Dần sinh Thủy của Hợi. Hậu thuẩn của Dần làm tăng sức mạnh của Hợi. Thân xung Dần là vì Kim của Thân khắc Mộc của Dần. Dần bị Thân đánh thẳng mặt làm cho nó không còn đủ sức để giúp đồng minh Hợi, vì vậy mới nói Thân hại Hợi. Xem H53, hình bên phải.
- Trong liên minh Tỵ Thân, Hỏa của Tỵ sinh Kim của Thân. Hậu thuẩn của Tỵ làm tăng sức mạnh của Thân. Hợi xung Tỵ là vì Thủy của Hợi khắc Hỏa của Tỵ. Tỵ bị Hợi đánh thẳng mặt làm cho nó không còn đủ sức để giúp đồng minh Thân, vì vậy mới nói Hợi hại Thân. Xem H53, hình bên trái.
H53
Xét những liên hệ sinh khắc,
rõ ràng là Lục Hại đã xác lập “Mộc sinh Thủy” [trong phần A] và “Hỏa sinh Kim”
[trong phần B]. Chiếu theo nguyên lý
sinh khắc của lý thuyết ngũ hành phổ cập thì chỉ có Thủy sinh Mộc chứ không có
Mộc sinh Thủy và chỉ có Hỏa khắc Kim chứ không có Hỏa sinh Kim. Tuy nhiên lý thuyết ngũ hành nguyên thủy lại
hoàn toàn đồng ý với Lục Hại. Nếu chấp
nhận Lục Hại thì rõ ràng là lý thuyết ngũ hành phổ cập đã không đủ khả năng để
giải thích. Và chỉ có lý thuyết ngũ hành
nguyên thủy mới làm được điều đó.
Trường Hợp Tỵ Dần Hại Nhau:
vì (a) Dần Hợi hợp, Tỵ xung Hợi, vậy Tỵ hại Dần;
và ngược lại (b) Tỵ Thân hợp, Dần xung Thân, vậy Dần hại Tỵ.
- Trong liên minh Dần Hợi, Thủy của Hợi sinh Mộc của Dần. Hậu thuẩn của Hợi làm tăng sức mạnh của Dần. Tỵ xung Hợi là vì Hỏa của Tỵ khắc Thủy của Hợi. Hợi bị Tỵ đánh thẳng mặt làm cho nó không còn đủ sức để giúp đồng minh Dần, vì vậy mới nói Tỵ hại Dần. Xem H54, hình bên phải.
- Trong liên minh Tỵ Thân, Kim của Thân sinh Hỏa của Tỵ. Hậu thuẩn của Thân làm tăng sức mạnh của Tỵ. Dần xung Thân là vì Mộc của Dần khắc Kim của Thân. Thân bị Dần đánh thẳng mặt làm cho nó không còn đủ sức để giúp đồng minh Tỵ, vì vậy mới nói Dần hại Tỵ. Xem H54, hình bên trái.
H54
Xét những liên hệ sinh khắc,
rõ ràng là Lục Hại đã xác lập “Hỏa khắc Thủy” [trong phần A] cùng với “Kim sinh
Hỏa” và “Mộc khắc Kim” [trong phần B].
Chiếu theo nguyên lý sinh khắc của lý thuyết ngũ hành phổ cập thì chỉ có
Thủy khắc Hỏa chứ không có Hỏa khắc Thủy, chỉ có Mộc sinh Hỏa chứ không có Kim
sinh Hỏa, và chỉ có Kim khắc Mộc chứ không có Mộc khắc Kim. Tuy nhiên lý thuyết ngũ hành nguyên thủy lại
hoàn toàn đồng ý với Lục Hại. Nếu chấp
nhận Lục Hại thì rõ ràng là lý thuyết ngũ hành phổ cập đã không đủ khả năng để
giải thích. Và chỉ có lý thuyết ngũ hành
nguyên thủy mới làm được điều đó.
H55
H56
H57
Như
đã trình bày, 12 TRƯỜNG HỢP NÀY ĐÃ XÁC LẬP chiều SINH và chiều KHẮC của ngũ
hành trong từng trường hợp một đối với những cung liên hệ để thành lập HẠI. Và chúng ta thấy đã rất nhiều lần lý thuyết
ngũ hành phổ cập không thể giải thích được nguyên lý sinh khắc của ngũ hành
trong Lục Hại qua sự xác lập của 12 trường hợp trên. Trong khi đó, nguyên lý sinh khắc của lý thuyết
ngũ hành nguyên thủy lại có khả năng giải thích một cách trọn vẹn. Sự thật phơi bày, không tùy tiện cũng không
biện chứng lòng vòng.
Cũng
như trước đây, thêm một lần nữa những cái dường như là bí ẩn thực ra chẳng có
gì là bí ẩn. Chúng chỉ đơn giản là những
dấu ấn thất bại của lý thuyết ngũ hành phổ cập trong việc giải thích về những
điều liên quan đến ngũ hành. Nếu không
phủ nhận Lục Hại, chúng ta không thể nói gì khác ngoài việc chấp nhận là lý
thuyết ngũ hành phổ cập đã không thể giải thích được những tương tác của ngũ
hành trong Lục Hại. Không thể giải thích
được vì, theo người viết, Lục Hại không được thiết lập trên nền tảng của lý
thuyết ngũ hành phổ cập, một lý thuyết đã bị sai lệch theo thời gian. Ngược lại, lý thuyết ngũ hành nguyên thủy, lấy
từ trong Việt Dịch, mới chính là nền tảng của Lục Hại do đó có khả năng giải
thích Lục Hại [và những bí ẩn khác] một cách dễ dàng.
tiếp theo: Giải Mã Những Bí Ẩn Trong Tử Vi - bài 7
Tử vi 2019 của 12 cung hoàng đạo. Xem chi tiết về tình duyên, công danh, sự nghiệp, học tập
ReplyDeletehttps://meozodiac.com/tu-vi-12-cung-hoang-dao-nam-2019
BÀI VIẾT RẤT TƯỜNG MINH VÀ THUẬN LÝ
ReplyDelete