Hà Hưng Quốc, Ph.D.
“Thế gian một vợ một chồng, không như vua bếp hai ông một bà.” Đó là hai câu ca dao của người Việt nói về sự
tích Vua Bếp (Táo Quân). Và sự tích đó được
kể lại như sau:
“Ngày xửa ngày xưa có một cặp vợ chồng tên
Trọng Cao và Thị Nhi. Hai vợ chồng ăn ở
với nhau đã lâu nhưng không có con nên sinh ra buồn phiền và hay cãi cọ nhau. Có một hôm Trọng Cao vì giận quá nên đã đánh
vợ. Thị Nhi bỏ nhà ra đi. Sau đó Thị Nhi đã gặp gỡ và bằng lòng làm vợ một
người đàn ông khác tên Phạm Lang. Trọng
Cao, sau khi hết giận, nghĩ lại và thấy mình vô cùng có lỗi nên bỏ nhà ra đi
tìm vợ, đi tìm cho đến khi tiền bạc mang theo đều tiêu sạch sành sanh và trở
thành người ăn xin.
Một hôm, trong lúc Phạm Lang đi vắng, thì ông
Trọng Cao tình cờ đến ăn xin ở trước cửa nhà Phạm Lang. Thị Nhi và Trọng Cao nhận ra nhau nên Thị Nhi đã
mời Trọng Cao vào trong nhà để tiếp đãi. Hai người nhắc lại chuyện xưa và tỏ lòng hối
hận về những chuyện không hay đã xảy ra lúc trước.
Phạm Lang trở về, Thị Nhi lo ngại bị chồng hiểu
lầm nên bảo Trọng Cao chui vào đống rơm sau vườn tạm thời lánh mặt để bà từ từ
tìm cơ hội giải thích với chồng. Về đến nhà
ông Phạm Lang lật đật lo đốt đống rơm để lấy tro bón ruộng. Trọng Cao trốn bên trong đống rơm không dám
chui ra nên bị thiêu chết. Bà Nhi trong
nhà chạy ra thấy Trọng Cao vì nghe theo sự sắp đặt của mình mà bị thiêu chết
cho nên đã nhào vào đống lửa đang cháy để chết theo. Khi Phạm Lang ra vườn thấy vợ mình chết thảm
nên cũng nhảy vào đống rơm đang cháy để chết theo vợ.
Linh hồn của ba người được đưa lên thượng
giới. Ông Trời phán rằng ba người đều giữ
trọn đạo làm người cho nên sắc phong chung
cho cả ba là VUA BẾP.” (Nguồn: Dân Gian Việt)
Nội dung của truyện
được dân gian truyền miệng từ đời này sang đời khác đại khái là như thế. Mỗi năm cứ đến ngày 23 tháng Chạp thì người Việt
làm một lễ cúng để đưa Vua Bếp về Trời. Tục
lệ cúng đưa cùng với sự tích và hình vẽ “hai
ông một bà” cưỡi một con cá chép lên Thiên Đình mỗi năm để báo cáo về việc ăn ở
của gia đình chủ nhà từ rất lâu đã là một tín ngưỡng của dân gian Việt. Và, đây là một trong số những di sản văn hóa
phi vật thể quí giá của Việt còn tồn tại.
Sở dĩ nó quí giá là vì những viên ngọc lấp lánh được tiền nhân gói gởi
bên trong.
Dĩ nhiên sự tích
là hư cấu và hình ảnh của ba ông bà Vua Bếp cũng là hư cấu. Nhưng tập tục và tín ngưỡng dân gian là
thật. Lấy cái thật để bảo tồn cái hư cấu
chắc chắn phải có lý do. Vậy thì, cái lý
do đó là gì? Tiền nhân Việt đã gởi gấm
cái gì trong đó??
Lý do thì rất
đơn giản và chỉ có một. Đó là, tạo dựng
ra một tín ngưỡng dân gian làm vỏ bọc nhằm bảo tồn một di sản văn hóa phi vật
thể quí giá để truyền lại cho con cháu Việt. Chỉ có tiền nhân Việt mới dám làm như vậy. Cái cách làm này tự nó cũng đã là một dấu ấn
của Việt. Người viết đã nhiều lần chứng
minh về điều này, các bạn có thể tự tìm đọc.
Và vì “tạo
dựng ra vỏ bọc tín ngưỡng dân gian” là chủ ý rất “khoa học” của tiền nhân cho
nên tín ngưỡng dân gian Việt không phát sinh từ sự mê tín. Sự tích Vua Bếp, hình ảnh hai ông một bà, và
tập tục cúng đưa ba ông bà Vua Bếp về trời ngày 23 tháng Chạp hàng năm cũng
không ngoại lệ: không phát sinh từ sự mê tín.
Còn muốn biết
tiền nhân gởi gấm cái gì thì chúng ta cần phải tra cứu cho thấu đáo, triệt
thượng lẫn triệt hạ.
1. Hình Ảnh Hai Ông Một Bà Cỡi Cá Chép
Hình ảnh một bà ở giữa hai ông là
hình ảnh biểu thị cho quái Ly với một hào âm ở giữa hai hào dương. Con cá chép là biểu tượng của quái Khảm với
một hào dương ở giữa hai hào âm. Xem hình H1.
Con cá chép ở
đây là cá chép của Thiên Đình. Trước kia
vì từng phạm tội nên bị đày xuống trần gian để tu hành sữa lỗi. Sau đó nhờ viên thành đạo quả nên đã hóa rồng
quay về lại cõi Trời. Rồng là biểu tượng
của chơn dương. Một khi quái Khảm đã giũ
bỏ được hai hào âm chỉ còn lại một hào dương thì đó chính là lúc cá chép hóa
rồng.
Ba ông bà Vua
Bếp phải cưỡi con cá chép thì mới có thể về được Thiên Đình. Nó có nghĩa là, ba ông bà Vua Bếp quái Ly cần
có sự trợ giúp của cá chép quái Khảm thì mới về được cõi Trời. Nhưng mà, không phải nhờ sự trợ giúp của con
cá chép tầm thường quái Khảm mà nhờ sự trợ giúp của con cá chép có khả năng hóa
rồng là một hào chơn dương để ba ông bà Vua Bếp lấy hào chơn dương đó lấp vào
chỗ hào âm của quái Ly và như thế thì Ly sẽ biến thành Kiền. Khi quái Ly đã biến thành quái Kiền thì tức
khắc ba ông bà Vua Bếp đã về đến Thiên Đình, vì Kiền chính là Thiên. Xem hình H2.
Nói một cách
khác, theo đạo gia, thì hình ảnh ba ông bà Vua Bếp cỡi cá chép hóa rồng về Trời
là biểu thị cho tiến trình “chiết Khảm điền Ly.” Ba ông bà Vua Bếp lúc vừa ngồi lên để cỡi cá
chép thì chỉ mới là giai đoạn đầu Ly ngồi trên Khảm nước lửa chưa xong, tức quẻ
Hỏa Thủy Vị Tế. Phải đợi cho đến khi cá
chép hóa thành rồng là lúc Khảm nhường một hào dương duy nhất cho Ly để Ly hóa
Kiền và Khảm hoá Khôn thì lúc đó mới xong, mới có thể vào chầu Ngọc Đế.
Tiến trình của
ba vị Vua Bếp cỡi cá hóa rồng về chầu Ngọc Đế là một tiến trình Khảm Ly hóa Càn
Khôn. Càn Khôn vốn dĩ đã bị nghiêng
lệch, Khảm Ly lên ngôi ở chính vị cho nên Tiên Thiên đã biến ra Hậu Thiên,
thánh đã biến ra phàm, thuần khiết đã biến ra ô nhiễm. Ba ông
bà Vua Bếp cỡi cá hóa rồng về chầu Ngọc Đế là một tiến trình từ Hậu Thiên về
lại với Tiên Thiên.
Nói một cách
khác, nó là một tiến trình của con người trở về với sự tôn nghiêm và hiền
thiện, trở về với nguyên thể và vô nhiễm, trở về với thế giới đại đồng thiêng
liêng và huyền nhiệm.
“Lạy đấng người nơi tôi
Tôn nghiêm và hiền thiện
Có khả năng chuyển hóa
Đem tù hãm tối tăm
Đốt tan trong ánh sáng
Những nghiêng lệch tạm thời
Bỗng chốc về đúng chỗ
Trời, người, đất dung thông
Thế giới hoát đại đồng
Thiêng liêng và huyền nhiệm
Lạy đấng người nơi tôi
Nguyên thể và vô nhiễm.”
“Tù hãm tối tăm” là hình ảnh biểu thị tiêu
cực của quái Khảm. “Đốt tan trong ánh sáng” là hình ảnh biểu thị tích cực của quái
Ly. “Những
nghiêng lệch tạm thời” ngụ ý là Càn Khôn đã thất chính và Khảm Ly đã giành
ngôi. Khảm Ly là nơi hình thành trước tiên
của một sinh mạng, của tâm và trí của một con người. “Bỗng
chốc về đúng chỗ” ám chỉ giây phút hào dương lìa quái Khảm lấp vào chỗ
trống của hào âm nơi quái Ly (đồng thời hào âm lìa quái Ly lấp vào chỗ trống
của hào dương nơi quái Khảm tức là hai hào độc âm và độc dương nơi hai quái
Khảm Ly hoán vị cho nhau), là giây phút cá chép hóa rồng, để Ly Khảm hóa Càn Khôn,
để con người phút chốc trở thành “đấng
người . . . nguyên thể và vô nhiễm.” Như vậy, bài thơ Lạy Đấng Người Nơi Tôi của Hà Hưng Quốc ở trên thực ra cũng là mô tả tiến trình đó, tiến
trình chiết Khảm điền Ly, tiến trình của ba ông bà Vua Bếp cỡi cá hóa rồng về
chầu Ngọc Đế, một cách thi vị hơn thôi.
Trở về với sự
tôn nghiêm và hiền thiện, với nguyên thể và vô nhiễm, với thế giới đại đồng
thiêng liêng và huyền nhiệm là Dịch, là Đạo Dịch. Và với Nữ Oa, Dịch cũng chính là Trời. Như
vậy, ba ông bà Vua Bếp cỡi cá hóa rồng về chầu Ngọc Đế là biểu thị của Đạo
Dịch, là Dịch, là tương cận với động thái “bắt con rùa đội Trời lên” trong
truyền thuyết Nữ Oa. Mà đã là Dịch thì
là của Việt. Chắc chắn là của Việt! Khẳng định là của Việt! Người viết đã minh chứng nhiều lần trong
những tác phẩm của mình và các bạn có thể tìm đọc.
2. Ngày 23 Tháng Chạp
Ngày 23 tháng Chạp chỉ cách “trừ
tịch” hay “giao thừa” có một tuần. Theo
tự điển Hán Việt, giao 交 có nghĩa là chỗ tiếp nhau, khoảng
thời gian giáp nhau và thừa 承 có nghĩa là liên tiếp, nối theo
nhau. Như vậy hai chữ giao thừa là chữ
đôi cùng một ý nghĩa. Đêm Giao Thừa có
nghĩa là một đêm của khoảng thời gian tiếp giáp nhau giữa năm cũ và năm
mới. Cũng theo từ điển Hán Việt thì Trừ 除 có
nghĩa là cuối, là hết. Tịch 夕có
nghĩa là đêm. Trừ tịch 除 夕
có nghĩa là đêm cuối cùng của năm. Nhưng
theo người viết thì chữ tịch ở đây còn có nghĩa là tịch lặng, giống như “vạn
lại thử giai tịch 萬籟此皆寂
muôn tiếng trong trời đất đều yên lặng.” Chữ tịch 寂 này đúng với ý nghĩa của những
chữ KHAI, TỊCH, SINH, TỬ nằm trên Việt Dịch Đồ bên dưới. Chữ TỊCH nằm ở tháng Sửu tức tháng Chạp âm
lịch, giai đoạn đông miên mà vạn vật ngủ vùi và sự sống qui tàng vào bên trong. Như vậy, trừ tịch có nghĩa là “hết TỊCH” tức chuyển
sang SINH. Dầu giải theo ý nghĩa nào thì
“trừ tịch” hay “giao thừa” đều vẫn là giao điểm giữa một chu kỳ cũ và một chu
kỳ mới.
Chỗ “hết TỊCH
tới SINH” là giao điểm của một năm mới và năm cũ. SINH nằm ở vị trí Tốn +3 Giáp, tháng Dần, tức
tháng Giêng âm lịch (nằm cạnh vòng đen ngoài cùng) thuộc vòng hành khí thuận
chiều kim đồng hồ của Việt Dịch Đồ. Còn
TỊCH nằm ở tháng Sửu tức tháng Chạp âm lịch.
Thời điểm giao thừa là thời điểm “tiếp nối theo” của một chu kỳ
mới. Chu kỳ đó là
chu kỳ thời gian/ tiết khí của một năm.
Xem H27B phía dưới.
Suy nghĩ ở một
tầng cao hơn, chu kỳ đó còn là chu kỳ của một đời người. Không phải mỗi lần Tết đến thì những người có
tuổi đều liên tưởng đến ngày sự sống của mình chấm dứt hay sao? Có lẽ vì vậy mà có người đã nói ăn Tết có
nguồn gốc từ ăn Chết. Trong ý nghĩa này thì chữ SINH cũng vẫn nằm ở vị trí Tốn
+3 Giáp nhưng thuộc dòng hành khí ngược chiều kim đồng hồ của Việt Dịch Đồ (nằm
trên và trong vòng tròn màu xanh lá cây).
SINH nằm ở vị
trí Tốn +3 Giáp của dòng hành khí ngược chiều kim đồng hồ (trên và trong vòng
xanh lá của Việt Dịch Đồ) chỉ có ý nghĩa là “được đẻ ra.” Còn chữ sinh mang ý nghĩa là “chỗ bắt đầu của
một sinh mạng” (đầu thai) thì nằm ở vị trí Chấn +9 Canh của dòng hành khí ngược
chiều kim đồng hồ (trên và trong vòng tròn màu xanh lá của Việt Dịch Đồ). Ở tại vị trí này thì sinh cũng là tử và tử
cũng là sinh. Vị trí này là thời điểm
giao thừa của một chu kỳ mới cũng là thời điểm chấm dứt một chu kỳ cũ, là thời
điểm giao thừa của một sinh mệnh mới cũng là thời điểm chấm dứt một sinh mệnh
cũ, là chỗ chấm dứt và khởi đầu của vòng tròn luân hồi. Vị trí này được đại diện bởi chữ TỬ và vòng
luân hồi được đại diện bởi vòng tròn màu tím vận hành ngược chiều kim đồng hồ
trên Việt Dịch Đồ.
Ngày 23 tháng
Chạp chỉ cách Giao Thừa có một tuần. Nó
rất gần với cái Tết. Một năm chỉ có 52
tuần. Ngày 23 tháng Chạp là ngày bước vào tuần cuối cùng của năm. Một đời cũng chỉ có trên dưới 60 năm. Nếu lấy một năm làm đơn vị thời gian cho một
đời người thì ngày 23 tháng Chạp của một đời người (nghĩa bóng) cũng là thời
điểm bước vào đơn vị thời gian cuối cùng của một sinh mạng. Nó cũng nhắc cho người có tuổi nhớ rằng họ
rất gần với Giao Thừa của một đời người, rất gần với cái Chết, TỬ.
Nếu hình ảnh “hai
ông một bà Vua Bếp” nhắc cho người ta nhớ chuyện “lửa nước chưa xong, Hỏa Thủy
Vị Tế” thì ngày 23 tháng Chạp nhắc cho người ta nhớ một đời người đã sắp hết,
cái chết đã cận kề, thêm một lần luân hồi sắp đến. Cho nên, hãy mau mau cỡi cá chép hóa rồng về
chầu Ngọc Đế. Cho nên, hãy mau mau chiết
Khảm điền Ly cho Càn Khôn không còn nghiêng lệch. Cho nên, hãy mau mau trở về với sự tôn nghiêm
và hiền thiện, trở về với nguyên thể và vô nhiễm, trở về với thế giới đại đồng
thiêng liêng và huyền nhiệm.
3. Sự Tích Vua Bếp
Sự tích Vua Bếp của người Việt chỉ
có 3 dị bản. Tuy tình tiết trong mỗi
phiên bản, có khác nhau nhưng hai đặc điểm luôn luôn được bảo vệ: Thứ nhất là đặc điểm hai ông một bà và thứ hai
là đặc điểm linh hồn của cả ba được đưa lên Thiên Đình chầu Ngọc Đế nhận sắc
phong. Điều này chứng tỏ người Việt hiểu
rõ và gìn giữ được “cái hồn, cái cốt” của di sản cho tới hôm nay. Lý do tại sao hai đặc điểm này là “cái hồn,
cái cốt” của di sản sự tích Vua Bếp thì cái thứ nhất đã vừa được giải thích
xong, đã triệt thượng, còn cái thứ hai sẽ được giải thích ngay trong đoạn này.
Trong khi đó thì
sự tích Táo Quân của người Hoa có đến 40 dị bản. Chúng không những khác xa với sự tích Vua Bếp
của người Việt, từ tình tiết tới nội hàm, mà còn khác xa giữa 40 dị bản của chính
họ. Điều này chứng tỏ họ không phải là
chủ nhân sáng tạo ra tập tục đưa Vua Bếp về Trời. Lại càng không phải là chủ nhân của
Dịch. Vì nếu họ là chủ nhân của Dịch thì
họ đã nắm chắc “cái hồn, cái cốt” của sự tích và tập tục, do đó sẽ không đưa
đến tình trạng “loạn” dị bản chứa đựng những nội hàm vô cùng tầm thường.
Đặc điểm “hai
ông một bà” đã bị nhiều người “tục hóa” thành “chuyện tình tay ba.” Nhưng đó là cách nhìn theo “tiểu thuyết.” Người Hoa không nắm được “cái hồn, cái cốt”
của sự tích cho nên họ nghĩ đặc điểm “hai ông một bà” là điều xúc xiểm thuần
phong mỹ tục vì vậy đã đào mồ chôn đặc tính đó và tạo ra những dị bản hoàn toàn
khác. Một khi đặc điểm “hai ông một bà”
đã bị chôn sâu xuống mồ thì cái hồn cốt Dịch không hiện diện nữa. Người Hoa tự hào Dịch là tài sản lớn nhất và
quí báu nhất của họ. Vậy mà họ tự đào mồ
chôn sống hồn cốt Dịch trong những dị bản Táo Quân của họ được ư? Hay hỏi một cách khác, bạn có thể cả tin
người Hoa là chủ nhân của Dịch, của sự tích và tập tục cúng đưa Vua Bếp về Trời
hàng năm được ư?
Thực ra thì tình
tiết của sự tích Vua Bếp nó nói lên cái gì? Cái chìa khóa để tìm ra đáp án của câu hỏi này
nằm ở đặc điểm thứ hai: hai ông một bà được lên Trời chầu Ngọc Đế nhận sắc
phong.
Như trong Việt
Dịch của Hà Hưng Quốc đã ghi: “Ly là tượng
‘năng lượng dương tính’ có nghĩa là ‘nóng, tỏa sáng, cháy
bùng, nhiệt độ cao hơn nhiệt độ của môi trường, bốc lên, có thể
làm tăng nhiệt, có thể hóa nhiệt, có thể đốt cháy.’ Nguyên thủy của những từ ngữ này dùng để mô tả
dạng-tính-thể-trạng-hành của vũ trụ vật lý Tiên Thiên . .
. Trong thế giới vi diệu sinh hoá Hậu Thiên . . . những
từ ngữ này vượt ngoài giới hạn năng lượng vật lý. Chúng mô tả năng lượng sống, loại
năng lượng tiêu thụ và thể hiện, của thế giới vi diệu sinh hóa.”
Về mặt tiêu cực, Ly còn có nghĩa
là nóng tính, sân hận, tranh chấp, vân vân.
Về mặt tích cực, Ly còn có nghĩa là chân thành, nhiệt tình, hăng hái,
vân vân. Ly còn là năng lượng thanh nhẹ
(so với năng lượng của Khảm), là nguyên thần, là lễ nghi (nguyên thần là gốc của
lễ nghi).
Cũng theo Việt Dịch của Hà Hưng
Quốc: “Khảm là tượng năng lượng âm tính.
Lý giải ở một tầng thấp hơn thì ‘năng lượng âm tính’ có nghĩa là ‘lạnh, trầm xuống,
chảy tràn vào chỗ thấp, rung chuyển khi bên ngoài xúc chạm vào, tối tăm, nhiệt độ
thấp hơn nhiệt độ của môi trường, có thể làm giảm nhiệt, có thể hóa hàn, có thể
làm đông lạnh, có thể làm tắt.’ Nguyên
thủy của những từ ngữ này dùng để mô tả dạng-tính-thể-trạng-hành của vũ trụ vật
lý Tiên Thiên. . . Trong thế giới vi diệu
sinh hoá Hậu Thiên . . . những từ ngữ này vượt ngoài giới hạn năng lượng vật lý. Chúng mô tả năng lượng sống, loại năng lượng
sáng tạo và tiềm phục, của thế giới vi diệu sinh hóa.”
Về mặt tiêu cực, Khảm là năng lượng
nặng trược (so với năng lượng của Ly), là nhục dục, là tinh trùng, là tối tăm,
là ưu phiền. Về mặt tích cực, Khảm còn
là năng lượng sáng tạo, tái tạo, phục hồi, phục sinh, phục hoạt; là đáp ứng, hiểu
biết; là thuần khiết, tinh khôi.
Trọng Cao và Thị Nhi “ăn ở với nhau” đã lâu mà “không con” sinh ra “buồn phiền” hay “cãi cọ” rồi
dẫn tới bạo hành “đánh vợ” và cuối
cùng là dẫn tới sự đổ vỡ hoàn toàn. Chuỗi
tình tiết này biểu thị mặt tiêu
cực của Khảm Ly. Tiêu cực của Khảm (ăn ở với nhau, không con, buồn
phiền) đã dẫn tới
tiêu cực của Ly (cãi cọ,
đánh vợ, đổ vỡ) tạo ra địa ngục trong đời sống vợ chồng. Thiếu hiểu biết, thiếu đáp ứng, thiếu cảm
thông (tiêu cực của Khảm) đã đưa đến cách ứng xử vô lễ với nhau (tiêu cực của
Ly) tạo ra thảm cảnh gia đình tan vỡ. Cái
vòng lẫn quẩn tiêu cực làm cho đời sống con người xứng với hai chữ “trầm
luân.”
Trình bày theo Việt Dịch
thì Khảm là gốc còn Ly là ngọn, Khảm là nội quái còn Ly là ngoại quái. Từ cái gốc tiêu cực dẫn đến cái ngọn tiêu
cực. Tổ hợp N trong hình H3 cũng chính
là quẻ Ly trên Khảm dưới “lửa nước chưa xong, hỏa thủy vị tế” của Chu
Dịch. Chưa xong cái gì? Là tình lý chưa xong, là lễ trí chưa xong, là
thần khí chưa xong (Ly = tình, lễ, thần; Khảm = lý, trí, khí). Nó cũng có nghĩa là làm người chưa xong. Gây thương tổn cho người là bất nhân. Cư xử thô bỉ với người là vô lễ. Không thuộc về mình mà tước đoạt là phi
nghĩa. Thiếu hiểu biết và cảm thông là
hạ trí. Làm người mà bất nhân, phi
nghĩa, vô lễ, hạ trí thì làm sao xong được?!!
Thị Nhi “bỏ nhà ra đi” và trên con đường ly khai với quá khứ đó đã gặp được Phạm
Lang, một người đàn ông xa lạ nhưng tốt bụng. Rồi Thị Nhi bằng lòng làm vợ Phạm Lang, bắt đầu
một cuộc sống mới. Trọng Cao hối hận nên đi tìm vợ. Trên bước đường ăn mày và tìm vợ, Trọng Cao
đã tình cờ gặp lại Thị Nhi. Hai người “nhận ra nhau.” Thị Nhi đã “mời Trọng Cao vào bên trong nhà tiếp đãi” như một người khách, một
người bạn. Hai người “nhắc lại chuyện xưa và tỏ lòng hối hận.” Phạm Lang về nhà, Thị Nhi “lo ngại bị chồng hiểu lầm” nên bảo Trọng
Cao chui vào đống rơm sau vườn “tạm thời
lánh mặt” để bà từ từ “tìm cơ hội
giải thích với chồng.”
Thị Nhi “bỏ nhà ra đi” là một quyết định dứt khoát bước ra khỏi cái
địa ngục, đoạn tuyệt với trầm luân. Với
quyết định này, từ trong đổ vỡ hoàn toàn một cơ hội đã nảy sinh, một người mới
đã xuất hiện, một gia đình mới được hình thành và một Thị Nhi mới được phục
sinh. Đoạn tuyệt với cái không hay, phục
sinh từ đáy huyệt của tâm hồn, vươn lên từ những ngổn ngang đổ nát là mặt tích
cực của Khảm. Và tình tiết ở đây đã thể hiện một nhân sinh quan hoàn toàn khác
biệt với nhân sinh quan khắc nghiệt của Tống Nho. Nó phản
ảnh tính nhân bản của một xã hội trưởng thành và độ lượng, độ lượng với chính
mình và độ lượng với người khác.
Trong cái xã hội trưởng thành và độ lượng đó Thị Nhi mới có cơ hội để bước
ra khỏi địa ngục, mới có cơ hội để phục sinh.
Thị Nhi tình
cờ gặp lại cố nhân nhưng không để lòng oán hận, không quay lưng giả vờ làm người
xa lạ, không hả hê với bất hạnh của người đã từng nhiếc mắng hành hạ mình. Ngược lại, Thị Nhi đã chân thật đối xử với
Trọng Cao nên họ đã “nhận ra nhau” và
cũng đã ứng xử rất lễ độ và nhiệt tình cho nên “mời Trọng Cao vào bên trong nhà tiếp đãi”. Chân thật, nhiệt tình, lễ độ là mặt tích cực
của Ly.
Sau khi làm vợ
của Phạm Lang, Thị Nhi trở nên người đàn bà khôn ngoan tinh tế hơn do đó bà
biết “lo ngại bị chồng hiểu lầm,”
biết “tìm cơ hội giải thích với chồng,”
biết “khuyên Trọng Cao tạm thời lánh mặt.” Thị Nhi cũng trở thành một con người trưởng
thành hơn, tinh tế hơn, hiểu biết hơn, tự biết nhìn lại và tự phê những hành vi
sai lầm của mình lúc trước cho nên đã “nhắc
lại chuyện xưa và tỏ lòng hối hận.”
Khôn ngoan, tinh tế, trưởng thành, hiểu biết là mặt tích cực của
Khảm.
Trọng Cao đã thiệt
tình hối hận với hành vi thô lỗ, bạo hành của mình và đã biến sự hối hận đó
thành hành động tận tâm “bỏ nhà ra đi tìm
vợ, đi tìm cho đến khi tiền bạc mang theo đều tiêu sạch sành sanh và trở thành
người ăn xin.” Gặp lại nhau với thân
phận một người ăn mày trước cửa nhà nàng, Trọng Cao không oán trách cố nhân đã bỏ
nhà ra đi và rồi đã làm vợ một người đàn ông khác, không tự ty mặc cảm hay ghen
hờn, chỉ thật thà vui mừng gặp lại cố nhân và thật tình hối tiếc những sai lầm
mình gây ra lúc trước. Thiệt tình, tận
tâm, thật thà vui mừng là mặt tích cực của Ly.
Trọng Cao lúc
này tuy đã nghèo hơn nhiều về vật chất nhưng đã giàu hơn nhiều về tinh thần và
cung cách ứng xử. Cũng giống như Thị
Nhi, Trọng Cao đã trưởng thành hơn và thông tình đạt lý hơn. Trưởng thành, thông tình đạt lý là mặt tích
cực của Khảm.
Trình bày theo Việt Dịch
thì Ly là gốc còn Khảm là ngọn, Ly là nội quái còn Khảm là ngoại quái. Từ cái gốc tích cực dẫn đến cái ngọn tích
cực. Tổ hợp M trong hình H4 cũng chính
là quẻ Khảm trên Ly dưới “nước lửa đã xong, thủy hỏa ký tế” của Chu Dịch.
Đã xong cái
gì? Là tình lý đã xong, là lễ trí đã
xong, là thần khí đã xong. Tích cực của
Ly đã dẫn đến tích cực của Khảm. Trọng Cao và Thị Nhi khép lại một đoạn quá khứ
một cách có hậu. Họ ứng xử văn minh hơn
cả một số người sau thiên niên kỷ 2000.
Không may là
những điều không tiên liệu được đã cướp đi mạng sống của cả ba người. Vì quan tâm cho hạnh phúc và danh dự của Thị
Nhi mà Trọng Cao đã cam tâm chịu chết cháy trong đống rơm chứ không chui ra. Vì vô tình mà gây ra thương tổn sinh mạng của
bạn mà Thị Nhi cam tâm đền mạng. Vì nặng
nghĩa vợ chồng và vì vô tình mà gây ra thương tổn cho sinh mạng cho người khác mà
Phạm Lang cam tâm đi theo.
Sự tích “hai
ông một bà” hoàn toàn không có chuyện tình tay ba giữa một người đàn bà với hai
người đàn ông, không có những trái ngang tơ rối của tình yêu lãng mạn, không có
dục tình vượt rào lễ nghi, không có dối trá và phản bội. Ở đây chỉ thấy hình ảnh một bà vợ đoan chính
của một Phạm Lang cần cù thương vợ. Và người đàn bà này cũng là một người bạn
(không phải vợ + cũ) có đầy đủ nhân cách và tôn nghiêm của một Trọng Cao (không
phải chồng + cũ) trưởng thành và độ lượng.
Và cuối cùng, ở mức độ khốc liệt nhất, nhân cách và tâm hồn của họ đã
thăng hoa theo sức nóng và ánh sáng của lửa Ly.
Gom chung lại, như một thể duy nhất, ba người họ đã thể hiện đầy đủ
nhân, nghĩa, lễ, trí. Họ đã làm xong,
LÀM NGƯỜI.
Nếu nhân cách
và tâm hồn của họ không xứng đáng với hai chữ thăng hoa thì họ đã không được
rước về Thiên Đình để đứng trước mặt Ngọc Hoàng nhận sắc phong. Nếu là chuyện tình tay ba thô tục và xúc xiểm
thuần phong mỹ tục thì làm gì có chuyện họ được rước về Thiên Đình để đứng
trước mặt Ngọc Hoàng nhận sắc phong. Vì
thế, đặc điểm thứ hai này, được rước về Thiên Đình để đứng trước mặt Ngọc Hoàng
nhận sắc phong, là một phần trong “cái hồn, cái cốt” của di sản Việt.
Thêm một lần
nữa, chúng ta thấy ý nghĩa và sự tương tác của hai quái Ly Khảm, cả hai mặt tiêu
cực và tích cực, đã dàn trải xuyên suốt tình tiết của câu chuyện. Hai nói một cách khác, tình tiết sự tích Vua
Bếp được hư cấu chỉ là để chuyển tải ý nghĩa và sự tương tác của hai quái Khảm
Ly. Chính xác hơn, là để chuyển tải đạo
lý vị tế và ký tế của Dịch trong giới hạn Ly Khảm.
Trong sự tích
vua Bếp, không những chúng ta thấy Dịch hiển hiện mà còn thấy cả Ngũ Hành
Nguyên Thủy và Đồ Dịch Việt.
Nhân là thường
của đức Mộc. Nghĩa là thường của đức Kim. Lễ là thường của đức Hỏa. Trí là thường của đức
Thủy. Thánh là thường của đức Hoàng Thổ. Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Thánh là Ngũ Thường và
Mộc, Kim, Hỏa, Thủy, Thổ là Ngũ Đức của Ngũ Hành Nguyên Thủy. Giữ Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí ở vòng ngoài để rồi bước
vào bái lạy đền Thánh ở trung tâm là dấu ấn không thể lầm lẫn của Ngũ Hành
Nguyên Thủy. Sống: thể hiện trọn vẹn Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí. Chết: bước vào Thiên
Đình nhận sắc phong của Ngọc Đế. Được
đưa lên trời để bước vào Thiên Đình nhận sắc phong của Ngọc Đế chính là bước
vào đền Thánh của Hoàng Thổ ở trung tâm của Ngũ Hành Nguyên Thủy.
Thánh là là
dấu ấn đặc thù của Ngũ Hành Nguyên Thủy.
Hoàng Thổ ở trung tâm là dấu ấn đặc thù của Ngũ Hành Nguyên Thủy. Mà, Ngũ Hành Nguyên Thủy là của Việt. Chắc chắn là của Việt! Khẳng định là của Việt! Người viết đã nhiều lần chứng minh về điều
này và các bạn có thể tìm đọc để phối kiểm.
Chưa hết, sự
tích Vua Bếp cho thấy Bát Quái và Ngũ Hành nằm chung trong một tổng thể gọi là
Đồ Dịch Việt. Tình tiết câu chuyện đã
được hư cấu để chuyển tải Ngũ Đức, Ngũ Thường và Dịch đúng sát với mô hình Đồ
Dịch Việt. Mà Đồ Dịch Việt “một ngàn
phần trăm” là của Việt. Bởi vì, vốn dĩ
cấu trúc và bản chất của Ngũ Hành Phổ Cập của người Hoa không thể nào kết hợp
được với Bát Quái.
Vài Lời Để Khép Lại Bài Viết
Như chúng ta đã thấy, tập tục
cúng đưa Vua Bếp về trời ngày 23 tháng Chạp hàng năm, sự tích “hai ông một bà”
Vua Bếp, và hình tượng ba ông bà Vua bếp cỡi cá hóa rồng về chầu Ngọc Đế gần với
dân gian tới mức độ không thể gần hơn, thiết thực với xã hội đến độ không thể
thiết thực hơn, và giản dị đến mức không thể giản dị hơn. Đó là đặc tính của minh triết Việt.
Minh triết Việt không xa rời thực
tế sinh động. Minh triết Việt không cư
trú trong tháp ngà ngôn ngữ. Minh triết
Việt không chơi vơi giữa không trung cao vòi của lý luận. Minh triết Việt không làm cho những điều đơn
giản trở thành rối rắm và bế tắc như những triết gia Tây phương đã làm. Minh triết Việt không làm cho Thần, Vật phân
ly như khoa học gia Tây Phương đã làm. Minh
triết Việt thật ra chỉ tự nhiên như . . . Dịch, như . . . sự tích Vua Bếp, như . . . tập tục
cúng đưa Vua Bếp về trời ngày
23 tháng Chạp hàng năm.
Không những nó
chứa đựng minh triết Việt mà nó còn gói ghém trong đó cả một gia tài phi vật thể
quý giá của Việt. Gia tài phi vật thể được
bảo tồn đến ngày hôm nay để truyền thừa cho chúng ta là nhờ tiền nhân Việt đã
khôn ngoan che giấu nó bên sau vỏ bọc tín ngưỡng dân gian. Nếu không có vỏ bọc này thì chưa chắc gia tài
này còn tồn tại sau những lần “tận lực hủy diệt” có “kế sách” của kẻ thù phương
Bắc. Và đến ngày hôm nay, chúng ta mở vỏ
bọc đó ra kiểm lại di sản của cha ông để lại mới thấy rằng và có thể khẳng định
rằng Âm Dương Ngũ Hành là của Việt, Bát Quái là của Việt, Hà Đồ là của Việt, Dịch
là của Việt . . . và còn nhiều thứ khác nữa.
Một khi đã xác nhận những thứ này là của Việt thì nền văn hóa Việt không
thể nào là nền văn hóa phái sinh của nền văn hóa Trung Hoa. Ngược lại thì chính xác.
Mỗi năm ít ra
chúng ta sẽ có một lần cơ hội để nói cho con cháu chúng ta biết rằng tập tục
cúng đưa Vua Bếp về Trời ngày 23 tháng Chạp không phải là sản phẩm của mê tín
vớ vẩn như nhiều người đã lầm tưởng và nên tự hào vì đã có nó . Nó là một di sản văn hóa phi vật thể quý giá
và là một phần của một nền văn hóa Việt, nền văn hóa đã đẻ ra nền văn hóa Trung
Hoa ngày nay. Hãy nói với con cháu chúng
ta biết minh triết Việt là như thế đấy và di sản cha ông để lại to lớn như thế
đấy.
Sau
hết, xin tất cả chúng ta hãy nhớ bảo vệ hình ảnh “hai ông một bà cỡi cá hóa rồng”
vì đó mới thật sự là Vua Bếp của chúng ta.
This comment has been removed by the author.
ReplyDelete