Những bí ẩn của Lục Thập Hoa Giáp hoàn toàn phơi bày
dưới lăng kính Việt Dịch. Cách tiếp cận mới đưa đến những khám phá lạ khiến
chúng ta tự hỏi phải chăng tổ tiên Lạc Việt mới chính là chủ nhân đích thực của
Bảng Lục Thập Hoa Giáp?
Trở về: Giải Mã Bí Ẩn Lục Thập Hoa Giáp - bài 2
3. GIẢI MÃ NGUYÊN LÝ NẠP ÂM QUA LĂNG KÍNH
VIỆT DỊCH ĐỒ
Như tôi đã trích dẫn và trình
bày qua rồi, Ngũ Hành trong Việt Dịch thì nguyên lý của
nó chứa đựng trong nội dung như sau:
“Trong tiến trình đưa đến Việt Dịch Đồ, vế thứ
hai trong 67 lời mật ngữ là “Thiên Nhất sanh Thủy, Địa Lục thành chi, Địa Nhị sanh Hỏa, Thiên Thất
thành chi, Thiên Tam sanh Mộc, Địa Bát thành chi, Địa Tứ sanh Kim, Thiên Cửu
thành chi, Thiên Ngũ sanh thổ, Địa Thập thành chi.” đã
được tác giả của Việt Dịch giải mã tường tận là Càn
sinh Thuỷ rồi sinh Mộc, Khôn sinh Hỏa rồi sinh Kim, sau hết là sinh Thổ. Ý nghĩa của
cụm chữ màu xanh này là xác định vị trí 5 thiên thể và chiều xoay cơ bản, mà
Càn-Khôn là trục, trong tương quan giữa mặt đất và bầu trời.
Xem hình H21.
Cũng từ cụm chữ màu xanh này mà
quy luật vận hành cơ bản của ngũ hành được xác định là từ Thuỷ tới Mộc tới Hoả
tới Kim rồi tới Thổ ở trung tâm. Hay trình
bày một cách khác là Thủy -> Mộc -> Hỏa -> Kim -> Thổ ở trung tâm.“ (Nguồn: Việt Dịch – Hà Hưng Quốc)
Và trong cuốn
Việt Dịch cũng đã giải thích về quy luật sinh khắc của lý thuyết ngũ hành nguyên
thủy như sau:
“Hay nói cách khác theo
ngôn ngữ Ngũ Hành là chiều kim đồng hồ lẫn chiều ngược kim đồng hồ đều là chiều
sinh. Như vậy, với 5 hành ở 5 phương vị
và với hai dòng hành khí vận hành ngược chiều nhau, lý thuyết ngũ hành nguyên
thủy đã tự thể hiện đầy đủ mà không cần sự trợ giúp nào từ bên ngoài. Gọi lý thuyết ngũ hành nằm ẩn trong Việt Dịch
Đồ này là Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy.
Để giúp cho thấy rõ hơn, chúng ta có thể đơn giản hóa Việt Dịch Đồ và
minh họa thành một mô hình riêng cho lý thuyết ngũ hành, trong đó hành Thổ nằm ở
trung tâm còn 4 hành Thủy, Mộc, Hỏa, Kim nằm trên một vòng tròn với quy luật
sinh vận hành hai chiều ngược nhau.
Chính đặc tính sinh hai chiều này nên nó được gọi là tương sinh. Hay nói cách khác, hai hành nằm cạnh nhau thì
tương sinh. Và, suy ra, hai hành đối lập
nhau thì tương khắc. Lý thuyết ngũ hành
nguyên thủy có thể tóm gọn và so sánh với lý thuyết ngũ hành phổ cập như trong
hình H45.” (Nguồn:
Việt Dịch – Hà
Hưng Quốc).
Như vậy thì đã quá rõ là quy luật vận hành ngược chiều
kim đồng hồ của hành khí âm và thứ tự nạp âm từ Kim tới Hỏa tới Mộc tới Thủy tới
Thổ trong LTHG hoàn toàn trùng khớp với quy luật vận hành ngược chiều kim đồng
hồ và theo thứ tự Kim -> Hỏa -> Mộc ->Thủy -> Thổ của
Việt Dịch.
Và nguyên lý đứng
sau lưng của quy luật vận hành của hành khí âm lẫn hành khí dương không gì khác
hơn là “Càn sinh Thuỷ rồi sinh Mộc, Khôn sinh
Hỏa rồi sinh Kim, sau hết là sinh Thổ” đã được giải mã từ câu nói bí nhiệm “Thiên Nhất
sanh Thủy, Địa Lục thành chi, Địa Nhị sanh Hỏa, Thiên Thất thành chi, Thiên Tam
sanh Mộc, Địa Bát thành chi, Địa Tứ sanh Kim, Thiên Cửu thành chi, Thiên Ngũ
sanh thổ, Địa Thập thành chi.” Nó cũng là Nguyên
Lý Ngũ Hành của Việt Dịch.
Thêm vào đó Việt Dịch cũng đã
nói là:
“Bát Quái thì 4 tượng đã thể hiện qua 4 trục và đã phân ra
thành 8 quái. Hà Đồ chuyển động. Tiên thiên dịch hành theo chiều xoay cơ bản.
Vì thế, hậu thiên độ số xuất hiện như chạy ngược kim đồng hồ. Bốn cặp số Hà Đồ phân bố ra 8 vị trí. Tám số Hà Đồ phối với 8 quái Hậu Thiên. Xem hình H26A. Vòng cung đỏ để chỉ chiều xoay cơ bản [thuận
hành] còn vòng cung xanh để chỉ Quái-Số phân bố theo tiên thiên dịch hành.
Tiếp
theo sau sự kết hợp của số với quái, hậu thiên dịch hành theo chiều xoay cơ bản. Hậu thiên độ số xuất hiện như chạy trước tiên
thiên độ số theo chiều kim đồng hồ. Tám
số Hà Đồ phối với tám hướng của Ngũ Hành Phương Vị [cũng có nghĩa là Quái-Số của
Hà Đồ Bát Quái phối với Thiên Can Ngũ Hành].
Xem hình H26B. Vòng cung đỏ để
chỉ chiều xoay cơ bản [thuận hành] còn những đường
tên đen để chỉ Quái-Số phân bố theo hậu thiên dịch hành.
Khi hai
dòng chuyển dịch thể hiện cùng một lúc với chuyển dịch tiên thiên nằm bên trong
và chuyển dịch hậu thiên nằm bên ngoài, tức là thể hiện sự chuyển động trọn vẹn
của Hà Đồ, thì chúng ta sẽ có được một đồ hình tổng thể trong đó độ số, bát
quái, ngũ hành, thiên can, địa chi và những thông tin khác tạo thành một cấu
trúc hợp nhất và trọn vẹn giống như hình H27.
Và từ giờ trở đi chúng ta sẽ gọi đồ hình này là Việt Dịch Đồ.” (Nguồn: Việt Dịch – Hà Hưng Quốc).
Với cấu trúc 8 quái Hậu Thiên phối với 8 số của Hà Đồ
cộng với sự vận hành Tiên Thiên và Hậu Thiên mà Việt Dịch Đồ xuất hiện. Như vậy, không phải là Việt Dịch đã cho thấy
rõ hai dòng vận hành ngược chiều nhau ngay trên Việt Dịch Đồ hay sao? Việt Dịch giải thích là “hai thể hiện xuất
hiện cùng một lúc với chuyển động tiên thiên nằm bên trong và chuyển động hậu
thiên nằm bên ngoài, tức là thể hiện sự chuyển động
trọn vẹn của Hà Đồ.” Cụm chữ mà Việt Dịch nói đó không phải là hai
vòng hành khí điều mà Thẩm Quát quan sát “Phàm
Dương ‘Khí’ bắt đầu ở phương Đông mà đi về bên phải, Âm ‘Khí’ khởi từ phương
Tây mà đi về bên trái, Âm Dương đan xen nhau mà sinh biến hóa” đó hay sao? Không phải là điều mà Lã Hải Tập quan sát “vạn
vật mới sinh nở tất nguồn gốc ở ‘Khí’ . . . thuận hành thì là Thể của Ngũ Hành,
nghịch hành thì là Dụng của Ngũ Hành” đó hay
sao? Vòng chuyển động ngược chiều kim đồng
hồ trên Việt Dịch Đồ với thứ tự ngũ hành “ngoại đạo” [không giống với lý thuyết
ngũ hành phổ cập] không phải là điều mà sách Khảo Nguyên nói “Nạp Âm Ngũ
Hành bắt đầu Kim, thứ đến Hỏa, thứ đến Mộc, thứ đến Thủy, thứ đến Thổ, đã không
có gốc đầu - cuối của nó, lại không dùng sinh khắc, vì vậy thuyết nầy chẳng biết
nó ở đâu đến” đó hay sao? Cụm chữ “thể hiện sự chuyển động trọn vẹn
của Hà Đồ” mà Việt Dịch nói tới đó cùng vị trí của
những độ số và của ngũ hành trên Việt Dịch Đồ không phải chính xác điều mà Thủy
Quế Đường Hạ Lục nói “Nạp Âm của 60 Giáp Tí lấy âm của Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ
mà sáng tỏ vậy. 1-6 là Thủy, 2-7 là Hỏa, 3-8 là Mộc, 4-9 là Kim, 5-10 là Thổ” đó hay sao? Hỏi tức
là đã trả lời rồi vậy.
Một loạt câu hỏi, cũng là trả lời, trên không
có hàm ý công nhận những gì họ viết là đúng hết. Họ chỉ đúng ở ngay những câu/cụm chữ được trích dẫn. Điều họ sai đã được phân tích qua rồi không cần
lập lại và còn nhiều cái sai khác cũng chưa cần đề cập tới lúc này. Cái quan trọng là những câu/ cụm chữ vừa được trích dẫn
đều mang tính cách tiền đề mà học giả và danh sư lý số gốc Hoa đã tựa vào đó để
giải thích những quy luật ngũ hành nạp âm. Tiền đề đó là quy luật vận động của
hành khí và là một quy luật căn bản nhất trong những quy luật Ngũ Hành Nạp Âm,
cái căn bản đã thể hiện ngay trong 4 chữ “Ngũ Hành Nạp
Âm” này. Và những câu được trích dẫn
mang tính cách tiền đề đó đích thực là có giá trị, dưới lăng kính của Việt Dịch. Gom tất cả chung lại với nhau thì chúng sẽ
cho chúng ta bức hình một con voi mà những “thầy mù vẽ voi” đã mô tả theo góc độ
của họ. Và hình dạng của con voi đó lại
khớp với Việt Dịch Đồ và khớp với nguyên lý ngũ hành của Việt Dịch một cách tuyệt
hảo.
Nói một cách nghiêm túc hơn, Việt Dịch nói chung và Việt
Dịch Đồ cùng với lý thuyết ngũ hành của Việt Dịch nói riêng chính là nền tảng
và là chìa khoá để giải thích những quy luật nạp âm làm nên cấu trúc của LTHG [và
giải thích nhiều khúc mắc chưa có giải đáp liên quan đến lý học Đông Phương đã được
chứng minh ở trong cuốn Việt Dịch và ở những bài viết khác].
Những quy luật nạp âm tựa trên nền tảng nào mà hình
thành? Trước khi trả lời tôi xin đưa một
số chú giải vào Việt Dịch Đồ, như cho thấy trong hình H27B và hình H28 phía dưới,
rồi chúng ta cùng nhìn vào chúng xem Việt Dịch Đồ nói gì.
Nhìn vào vòng trong, vòng ngược chiều kim đồng hồ, của Việt
Dịch Đồ H27B chúng ta thấy ngay hai vị trí SINH và TỬ. TỬ nằm ở phía Tây, Chấn +9 Canh Kim, còn SINH
nằm ở phía Đông, Tốn +3 Giáp Mộc. Nhìn
vào vòng ngoài của Việt Dịch Đồ, vòng thuận chiều kim đồng hồ, chúng ta cũng thấy
hai vị trí SINH và TỬ. TỬ cũng nằm hướng
Tây, Chấn +9 Canh Kim, đóng ở Thân vị.
SINH cũng nằm ở hướng Đông, Tốn +3 Giáp Mộc, đóng ở Dần vị. Mô tả chu kỳ sinh hóa, Việt Dịch viết:
Trích dẫn:
“Xét về mặt
thiên nhiên sinh hoá, bên trong vòng đai đỏ của đồ hình [H28] mô tả chu kỳ sinh hóa của con người qua tám giai đoạn
là (1) thụ thai ở Đoài, (2) thai nhi phát triển nhanh ở Ly, (3) thai nhi chiếm đầy
bụng mẹ ở Khôn, (4) hài nhi chào đời ở Tốn, (5) thiếu niên háu ăn mau lớn ở Cấn,
(6) thanh xuân sung mãn ở Khảm, (7) lập gia đình ở Càn, (8) già nua và chết ở
Chấn.
Từ Tốn tới Chấn [4 -> 8] là một nửa dương của vòng tròn chu kỳ sinh hoá. Một nửa đó mô tả trạng thái sống động của một
đời người. Từ Chấn tới Tốn [8 à 4] là âm của vòng tròn chu kỳ sinh hóa. Một nửa này mô tả trạng thái tiềm ẩn của một đời
người. Chào đời ở Tốn [4] và vĩnh biệt
cõi đời ở Chấn [8]. Ra khỏi bụng mẹ
[thân mẫu] ở Tốn [4] và trở về bụng mẹ [địa mẫu] ở Chấn [8]. Tử sinh đối đãi. Tử rồi sinh, sinh rồi tử quay tròn không dứt. Chết ở Chấn [8] nên không còn thấy mặt ở Đoài
[1]. Thụ thai cũng ở Đoài [1]. Một
sinh mạng cũ chấm dứt ở Chấn [8], một sinh mạng mới bắt đầu ở Đoài [1], chấm dứt
và bắt đầu nằm liền nhau trong vòng tròn sinh hoá. Khởi hiện một sinh mạng mới nơi Đoài [1], vắng
mặt một sinh mạng cũ cũng ở Đoài [1]. Nơi
khởi hiện và nơi biến mất không hai không khác trong vòng tròn sinh hoá.
Chồng vợ giao cấu đạt tới khoái cảm tột đỉnh
của dục tình trải nghiệm trạng thái rúng động toàn thân nên nói là nổ ra, là chấn
động ở Chấn [8]. Tinh trùng gặp trứng mà
hoài thai nên nói là hòa duyệt ở Đoài [1].
Bào thai lớn dần thành hình vóc thai nhi tuy có nguyên thần nhưng chưa nảy
sinh hay hấp thụ tư tưởng ô nhiễm nên nói là sáng đẹp ở Ly [2]. Sống cùng sự sống của mẹ, theo từng nhịp đập
của mẹ nên nói là thuận hòa ở Khôn [3].
Mở mắt chào đời, nhập vào dòng sống với tất cả trong sạch không tranh
không chấp nên nói là hoà nhập, nhún nhường ở Tốn [4]. Lớn lên và không thể duy trì được sự ngây thơ
hồn nhiên nhưng tánh vẫn thiện nên nói là chững lại [ngưng lại] ở Cấn [5]. Lớn thêm nữa thì đầu óc đã nhồi đầy kiến chấp
và toan tính nên nói là thâm hiểm, là thấm đẫm ở Khảm [6]. Lập gia đình, trở thành cha mẹ, lao vào tranh
dành miếng cơm manh áo cho gia đình, già dặn với kinh nghiệm và quyết đoán
trong hành động nên nói là cương quyết mãnh liệt ở Càn [7]. Trở nên già nua tàn tạ, lý trí có những lúc
hoài niệm và tự vấn, tâm thức có những lúc sáng tỏ tỉnh ngộ, rồi nhựa sống
khô kiệt, lúc đang chết trải nghiệm sự
rúng động do tứ đại phân rã nên nói là loé sáng, là chấn động ở Chấn [8]. Nơi trải nghiệm sự chấn động của hồn phách xuất
ra cũng là nơi trải nghiệm sự chấn động của khoái cảm dục tình cho nên đoạ cũng
đó mà siêu cũng đó.
Chu kỳ sinh hóa của con người có một nửa ẩn
một nửa hiện, một nửa thế giới bên trong, một nửa thế giới bên ngoài, một nửa tịnh một nửa động, một nửa sinh một nửa
diệt. Từ Chấn tới Tốn [8 -> 4] là ẩn, là thế giới
bên trong, là tịnh, là Sinh. Từ Tốn tới
Chấn [4 -> 8] là hiện, là thế giới
bên ngoài, là động, là Diệt. Ẩn là vì
không ai thấy và cũng chẳng thấy ai. Hiện
là vì thấy người và người cũng thấy. Thế
giới bên trong là vì còn nằm trong bụng mẹ.
Thế giới bên ngoài vì đã lìa bụng mẹ.
Tịnh là vì lặng lẽ tùy thuộc vào mẹ và nạp khí tiên thiên mà sống. Động là vì lăng xăng tranh đấu và tùy thuộc
vào khí hậu thiên mà nuôi mạng. Sinh vì
từ không mà trở thành có. Diệt vì từ có
mà trở về không.
Bên
ngoài vòng đai đỏ của đồ hình mô tả chu kỳ sinh hoá của thiên nhiên qua 8 giai đoạn
là (a) biến mất ở Tân, (b) im lìm ở Nhâm, (c) ngủ vùi ở Quý, (d) bừng dậy thập
thò ở Giáp, (e) mềm mại mong manh ở Ất,
(f) vươn ra lớn mạnh ở Bính, (g) vững chắc đầy đủ ở Đinh, (h) tàn lụi rũ chết ở
Canh.
Nếu nhìn thật kỷ thì 8
giai đoạn sinh hóa của con người và 8 giai đoạn sinh hóa của thiên nhiên có sự
liên hệ mật thiết được mô tả trên đồ hình như sau:
Giai đoạn 1 = giai đoạn A = Tân -4 Đoài
Giai đoạn 2 = giai đoạn F = Bính +7 Ly
Giai đoạn 3 = giai đoạn G = Đinh -2 Khôn
Giai đoạn 4 = giai đoạn D = Tốn +3
Giáp
Giai đoạn 5 = giai đoạn E = Cấn -8 Ất
Giai
đoạn 6 = giai đoạn B = Nhâm +1 Khảm
Giai
đoạn 7 = giai đoạn C = Quý -6 Càn
Giai
đoạn 8 = giai đoạn H = Canh +9 Chấn
Thứ tự của những giai đoạn
từ 1 -> 8 trong chu kỳ sinh hóa
của con người chuyển dịch theo hướng ngược kim đồng hồ. Thứ tự của những giai đoạn từ A -> H trong chu kỳ sinh hóa
của thiên nhiên chuyển dịch theo hướng kim đồng hồ. Tuy một thuận một nghịch nhưng giữa con người
và ngoại giới có một sự tương quan chặt chẽ.
Vạn vật bừng dậy ở
xuân-mộc khởi động một nửa chu kỳ sống động của vòng sinh hoá. Cây cỏ mọc mầm, vỡ đất thập thò lú ra ở Giáp
[D = Tốn +3 Giáp], mong manh mềm mại ở Ất [E = Cấn -8 Ất]. Con người nhú đầu chui ra khỏi bụng mẹ, hít
thở không khí lần đầu nhập vào dòng sống sinh động ở Tốn [4 = Tốn +3 Giáp],
mong manh tuổi thơ ở Cấn [5 = Cấn -8 Ất].
Vạn vật tăng trưởng ở Hạ-Hỏa,
vươn ra lớn mạnh ở Bính [F = Bính +7 Ly], vững chắc đầy đủ ở Đinh [G = đinh -2
khôn]. Con người lớn khôn chững chạc ở Đông-Thủy,
động dục ở tuổi thanh xuân nơi Khảm [6 = Nhâm +1 Khảm], lập gia đình và tiêu
hao sinh lực ở Càn [7 = Quý -6 Càn].
Vạn vật thu liễm và tàn
tạ ở Thu-Kim. Cây cỏ già rụng ở Canh [H
= Canh +9 Chấn] và tàn lụi biến mất ở Tân [A = tân -4 Đoài]. Con người cũng cạn cùn sinh lực, chấm dứt sự
sống ở Chấn [8 = Canh +9 Chấn] và biến mất ở Đoài [1 = Tân -4 Đoài].
Vạn vật quy tàng ở Đông-Thủy,
im lìm ở Nhâm [B = Nhâm +1 Khảm] ngủ vùi ở Quý [C = Quý -6 Càn]. Con người ẩn náu trong bụng mẹ ở Hạ-Hỏa, thai
nhi phát triển nhanh ở Ly [2 = Bính +7 Ly], chiếm đầy bụng mẹ ở Khôn [3 = Đinh
-2 Khôn].
Chu kỳ sinh hóa của con
người và chu kỳ sinh hoá của thiên nhiên vừa đồng vừa dị. Con người và thiên nhiên vừa cộng hưởng vừa đối
lập. Đồng ở Xuân-Thu, dị ở Đông-Hạ. Cộng hưởng ở Giáp-Ất, Canh-Tân. Đối lập ở Nhâm-Quý, Bính-Đinh. Trong chu kỳ của thiên nhiên sinh hoá, vạn vật
quy tàng im lìm ở Càn-Khảm. Trong chu kỳ
sinh hoá của con người, thai nhi lớn dần trong bụng mẹ ở Ly-Khôn. Giai đoạn quy tàng trong chu kỳ sinh hóa của
thiên nhiên thì vạn vật đi vào đông miên để tiết kiệm năng lượng. Chu kỳ sinh hóa của con người thì giai đoạn nằm
trong bụng mẹ hài nhi tích cực hấp thụ năng lượng để lớn lên.”
Ngưng trích dẫn.
Giải thích trên của Việt
Dịch vạch ra cho chúng ta thấy hai dòng hành khí, một thuận chiều kim đồng hồ
và một ngược chiều kim đồng hồ, đã thể hiện như thế nào qua chu kỳ sinh hoá của
con người và chu kỳ sinh hoá của thiên nhiên.
Không phải Thẩm Quát cũng nói “Phàm Dương ‘Khí’ bắt đầu ở phương Đông
mà đi về bên phải, Âm ‘Khí’ khởi từ phương Tây mà đi về bên trái, Âm Dương đan
xen nhau mà sinh biến hóa” tức là muốn nói tới hai dòng hành khí chuyển dịch ngược
chiều nhau đó hay sao?
Và Việt Dịch nói “hai
thể hiện xuất hiện cùng một lúc với chuyển động tiên thiên nằm bên trong và
chuyển động hậu thiên nằm bên ngoài.”
Những chữ “chuyển động tiên thiên” hay “nằm bên trong” khi nói về hành
khí của trời đất không phải chỉ về “nội khí” hay “tàng khí” hay “tiên thiên chi
khí” hay “hành khí Âm” đó hay sao? Ngược
lại những chữ “chuyển động hậu thiên” hay “nằm bên ngoài” khi nói về hành khí của
trời đất không phải chỉ về “ngoại khí” hay “thể khí” hay “hậu thiên chi khí”
hay “hành khí Dương đó sao? Như vậy,
không phải “nạp âm” chính là nạp hành khí Âm đó hay sao?
Việt Dịch cũng có nói “Khi
những độ số tiên thiên . . . xoay thuận chiều . . . thì những độ số hậu thiên sẽ
xuất hiện ‘như là’ đã xoay nghịch. . . và chúng ta sẽ có được đồ hình Bát Quái
Hậu Thiên phối Hà Đồ giống như hình [H26A].
Ngược lại, khi những độ số hậu thiên . . . xoay thuận chiều thì những
độ số tiên thiên xuất hiện “như là” đã xoay nghịch và chúng ta sẽ có được đồ
hình Bát Quái Hậu Thiên phối Hà Đồ giống như hình [H26B].” Nhìn vào Việt Dịch Đồ tuy thấy là chiều vận
hành của vòng trong [vòng hành khí Âm, vòng chuyển động của tiên thiên độ số] đi
theo chiều ngược kim đồng hồ nhưng thực ra nó lại là kết quả của tiên thiên độ
số chuyển động theo chiều kim đồng hồ.
Như vậy, tuy nạp âm đi theo vòng ngược kim đồng hồ nhưng không phải là
tuân hành cái quy luật “thuận chuyển” đó hay sao?
Lại nữa, vòng vận hành
nghịch chiều kim đồng hồ là vòng tiên thiên chuyển động [vòng bên trong] còn
vòng vận hành theo chiều kim đồng hồ [vòng bên ngoài] là vòng hậu thiên chuyển động. Không phải sách Khảo Nguyên nói “Ngũ Hành
thứ tự lấy bắt đầu là khí, cuối cùng là hình” đó hay sao? Không phải cái gọi là “khí của ngũ hành” ẩn núp ở vòng trong còn
cái gọi là “hình của ngũ hành” bày ra trong trạng thể
của vạn vật nằm ở vòng ngoài ngay trên Việt Dịch Đồ đó hay sao?
Việt Dịch lại nói con người
và thiên nhiên “đồng ở Xuân-Thu” và “cọng hưởng ở Giáp Ất, Canh Tân” tức là nói đồng
hay cọng hưởng ở vị trí SINH và TỬ trên Việt Dịch Đồ H27B. SINH ở Đông Mộc - Mùa Xuân và TỬ ở Tây Kim -
Mùa Thu. Việt Dịch lại nói “Một sinh
mạng cũ chấm dứt ở Chấn [8], một sinh mạng mới bắt đầu ở Đoài [1], chấm dứt và
bắt đầu nằm liền nhau trong vòng tròn sinh hoá.
Khởi hiện một sinh mạng mới nơi Đoài [1], vắng mặt một sinh mạng cũ cũng
ở Đoài [1]. Nơi khởi hiện và nơi biến mất
không hai không khác trong vòng tròn sinh hoá.” Như vậy thì Tây-Kim không phải là nơi chấm dứt
và cũng là nơi khởi đầu một chu kỳ hiện hữu của con người hay sao? Và Việt Dịch cũng có nói, “Vạn vật thu liễm
và tàn tạ ở Thu-Kim. Cây cỏ già rụng ở
Canh [H = Canh +9 Chấn] và tàn lụi biến mất ở Tân [A = tân -4 Đoài]. Con người cũng cạn cùn sinh lực, chấm dứt sự
sống ở Chấn [8 = Canh +9 Chấn] và biến mất ở Đoài [1 = Tân -4 Đoài]”. Sách Sử Ký Luật Thư ghi rõ “Ở thời lệnh là
tháng Tám, mười hai luật là Nam Lữ, mười hai Chi là Dậu. Thời đó vạn vật đều tiếp
xúc với đất chết, Dương khí càng suy, mở đầu phục tàng.” Chỗ chữ
SINH phía Đông Mộc là “nơi
bắt đầu một nửa chu kỳ bộc lộ ra bên ngoài” đồng thời cũng là “nơi chấm dứt một nửa chu
kỳ thu về lại bên trong” của hành khí Dương thể hiện qua vạn vật. Ngược lại chỗ chữ TỬ phía Tây-Kim là “nơi chấm dứt một nửa chu
kỳ bộc lộ ra bên ngoài” và đồng thời cũng là “nơi bắt đầu của một nửa chu kỳ thu
về lại bên trong” của
vạn vật. Như vậy, nạp âm khởi đầu ở hành
Kim không phải là hợp lý lắm hay sao? Nếu
Tây-Kim không là nơi khởi đầu của hành khí Âm thì còn có chỗ nào hợp lý hơn? Nếu
quy luật nạp âm không khởi nạp từ hành Kim thì khởi nạp từ hành nào đây? Hành khí Âm không phải là chuyển dịch ngược
chiều kim đồng hồ đó sao? Hành khí Âm
không phải là chuyển dịch theo vòng tròn bất tận mà thứ tự ngũ hành từ là từ
Kim tới Hỏa tới Mộc tới Thủy, còn Thổ sau cùng và ở trung ương phân tán ra vị
trí 4 Quí đó sao? Không phải là Khảo
Nguyên đã nói “Nạp Âm Ngũ Hành bắt đầu Kim, thứ đến Hỏa, thứ đến Mộc, thứ đến
Thủy, thứ đến Thổ, đã không có gốc đầu - cuối của nó, lại không dùng sinh khắc” đó hay sao? Cụm chữ “nơi chấm dứt cũng là nơi khởi đầu
một chu kỳ”
[chấm dứt một chu kỳ cũ và khởi đầu một chu kỳ mới] của Việt Dịch và cụm chữ “không có gốc đầu-cuối” của Khảo Nguyên không
phải là cùng diễn tả một “vòng tròn bất tận” đó hay sao?
Nhìn vào vị trí của Trọng,
Mạnh, Quí ghi chú trên Việt Dịch Đồ. Nếu
theo hướng vận hành của vòng ngoài thì
không phải là hành khí Dương dịch chuyển từ Mạnh qua Trọng qua Quí ở mỗi
mùa/hành đó sao? Còn nếu theo hướng vận
hành của vòng trong thì không phải là hành khí Âm thì dịch chuyển từ Trọng qua
Mạnh qua Quí ở mỗi mùa/hành đó sao? Rồi
nhìn vào vị trí Trọng, Mạnh, Quí ở hướng Tây Kim, chúng ta thấy:
Dậu (Th.8) = Hành Kim = Trọng = chỗ
Vượng của Kim, hành khí Kim được vượng.
Thân (Th.7) = Hành Kim = Mạnh = chỗ
Sinh của Kim = hành khí Kim được sinh.
Mùi (Th.6) = Hành Thổ = Quí = chỗ Mộ
của Kim, hành khí Kim thấm sâu vào đất.
Thẩm Quát đã nói “Thứ tự của Ngũ Hành Nạp
Âm là trước Trọng sau Mạnh, Mạnh rồi mới đến Quí. Tam nguyên của Độn Giáp đã
ghi chép như thế vậy. Giáp Tí là Trọng của
Kim . . . Nhâm Thân ở dưới là Mạnh của Kim . . . Canh Thìn . . . Quí của Kim .
. . như thế tam nguyên của Kim hết.” Không phải
cái thứ tự Trọng-Mạnh-Quí [từ Thu-Kim] của hành khí Âm chuyển dịch ngược chiều
kim đồng hồ đã nằm ngay trên Việt Dịch Đồ đó hay sao? Và ngược lại không phải cái thứ tự Mạnh-Trọng-Quí
[từ Xuân-Mộc] của hành khí Dương chuyển dịch theo chiều kim đồng hồ đã nằm ngay
trên Việt Dịch Đồ đó hay sao?
Nhìn vào vị trí của Trọng,
Mạnh, Quí và tên của từng tiết khí tương quan hàng ngang trên Việt Dịch Đồ. Thí dụ như:
Mạnh+Lập Xuân+Vũ Thũy = khí Mộc “sinh” cây cỏ tươi với mưa
xuân lấy phấy
Trọng+Kinh Trập+Xuân Phân = khí Mộc
“vượng” cây cỏ tốt và côn trùng tưng bừng
Quí+Thanh Minh+Cốc Vũ = khí Mộc vào
tận đất, màu xanh trùm khắp, mưa trồng mễ cốc
Xét tiến trình của thiên nhiên không
phải là Trọng, Mạnh, Quí đã mô tả cái cường độ của một hành trong mỗi mùa theo
từng mốc thời gian mà hành khí của trời đất thể hiện qua vạn vật đó hay
sao? Nhìn thêm vào vị trí của 4
Quí. Thí dụ như:
Quí ở Thìn = Thanh Minh [màu xanh hực
hở] + Cốc Vũ = (mưa nhiều của mùa vụ)
Quí ở Mùi = Tiểu Thử (nóng nhẹ) + Đại
Thử (nóng gắt)
Quí ở Tuất = Hàn Lộ (sương lạnh) +
Sương Giáng (sương đóng muối)
Quí ở Sữu = Tiểu Hàn (lạnh nhẹ) + Đại
Hàn (lạnh gắt)
Xét cường độ hành khí của một Quí
so với cường độ hành khí của Mạnh và Trọng trước mặt nó và sau lưng nó. Không phải là mỗi một Quí đánh dấu cái chỗ thể
hiện đến “cuối/tận/chót” của
một hành trước khi chuyển qua một hành khác đó hay sao? Như vậy
không phải là quy luật nạp âm 3 lần cho một hành trước khi chuyển qua một hành
khác, cái gọi là tam nguyên, rút ra từ nguyên lý Trọng-Mạnh-Quí, cũng là Vượng-Sinh-Mộ
theo cách nói của học giả NVTA, đó hay sao?
Nhìn vào vị trí 24 tiết
khí trên Việt Dịch Đồ. Không phải hành
khí của 4 mùa phân tán ra tám phương thành tám tiết tức 8 mốc chính Lập Xuân,
Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân, Lập Đông, Đông Chí của mùa tiết đó
sao? Không phải Trọng-Mạnh-Quí của mỗi
hành liên quan đến 6 tiết khí trong mỗi mùa và tổng cộng là 24 tiết khí trong 4
mùa của một năm đó hay sao? Không phải
quy luật cách bát trong nạp âm rút ra từ nguyên lý Bát Tiết, hay là Bát Chính
nói theo Sử Ký Luật Thư, cho một vòng chu kỳ vận hành của thiên nhiên đó hay
sao?
NK = Nhựt kinh (tuyến mặt trời)
Một lần nữa chúng ta hãy nhìn lại
Việt Dịch Đồ cho thật kỹ. Trước hết
chúng ta hãy suy nghiệm về cái vòng tròn sinh hoá của con người, vòng tròn chỉ
sự chuyển dịch ngược chiều kim đồng hồ trên Việt Dịch Đồ. Với vòng tròn bên trong này của Việt Dịch Đồ này
chúng ta thấy chỉ có hai chữ SINH và TỬ ở hai đầu Đông và Tây. Nhưng phải coi chừng vì ẩn trong đó có đến
hai chu kỳ. Một chu kỳ gồm một nửa là từ TỬ tới SINH và một nửa còn lại
là từ SINH tới TỬ [nhìn vào hai đường tròn màu xanh lá]. SINH ở đây có nghĩa là được ĐẺ ra và TỬ ở đây
là lúc HẾT THỞ. Tạm gọi nó là chu kỳ ĐẺ
RA – HẾT THỞ. Còn chu kỳ thứ hai là một
chu kỳ khác [nhìn vào đường tròn màu tím], một chu kỳ chỉ về sự hiện hữu của một
con người, mà nơi bắt đầu và nơi chấm dứt của sự hiện hữu đó đều nằm ngay chữ TỬ. Chấm dứt một chu kỳ cũ và bắt đầu một chu kỳ
mới. Sinh tử liền nhau thành vòng tròn bất
tận. Ở chỗ chữ TỬ đó là cái mốc đánh dấu nơi chấm dứt và cũng là nơi bắt đầu của
một chu kỳ hiện hữu của con người. Ở chỗ
chữ TỬ đó là cái mốc đánh dấu nơi ĐẾN với thế gian [từ lúc nhập thai] và cũng là nơi ĐI khỏi thế
gian [sau khi lìa xác]. Tạm gọi nó là chu kỳ ĐẾN-ĐI để dễ
phân biệt. Và cái chu kỳ ĐẾN-ĐI là một vòng
tròn bất tận. Như vậy thì đã quá rõ ràng
là chỗ chữ SINH không phải là nơi bắt đầu của sự sống, sự hiện hữu, sự có mặt
trong thế gian này. SINH chỉ là nơi “ló
mặt ra” để “nhập cuộc” vào dòng sinh động của thế gian này mà thôi chứ còn sự sống,
sự hiện hữu, sự có mặt trong thế gian này đã bắt đầu từ chỗ của chữ TỬ. Có nhìn thấy rõ được hai vòng tròn này trên
Việt Dịch Đồ thì mới thấy hết cái bí ảo và diệu dụng của Việt Dịch Đồ và cái
minh triết của Đông Phương. Khái niệm có
hai vòng chu kỳ không phải là khó hiểu nhưng rất khó thấy nếu không được chỉ vạch
ra và cũng dễ lầm vì cả hai đều được gọi là “chu kỳ
sinh tử” của con người.
Tương tự, chúng ta hãy suy nghiệm về cái vòng tròn sinh hóa
của vạn vật, vòng tròn màu đen bên ngoài vẽ theo khuôn vuông có những mũi tên
chỉ hướng chuyển dịch thuận chiều kim đồng hồ, trên Việt Dịch Đồ. Cũng có hai chữ SINH và TỬ nằm trong vòng tròn
đó. Chữ SINH nằm ở Dần vị là chỗ “chui
ra khỏi đất” của cây cỏ. Chữ TỬ nằm ở Thân
vị là chỗ “tàn tạ, héo úa” của cây cỏ. Từ chỗ SINH tới chỗ TỬ là một nửa chu kỳ của
vạn vật và một nửa này “bộc lộ ra bên ngoài” sức sống của vạn vật. Từ chỗ TỬ tới chỗ SINH là một nửa còn lại chu
kỳ của vạn vật và một nửa này “thu về lại bên trong” sức sống của vạn vật. SINH là chỗ bắt đầu của giai đoạn “bộc lộ ra
ngoài” và cũng là chỗ chấm dứt giai đoạn “thu về lại bên trong.” TỬ là chỗ chấm dứt
giai đoạn “bộc lộ ra ngoài” và
cũng là chỗ bắt đầu của giai đoạn “thu về lại bên trong.” Bên cạnh cái chu kỳ SINH-TỬ vừa mô tả còn có
một chu kỳ khác cũng vận hành cùng lúc. Đó
là chu kỳ KHAI/BẾ. Trên Việt Dịch Đồ có
chữ KHAI ở Tí, chữ TỊCH ở Sữu nằm cạnh chữ SINH ở Dần. Chúng đại diện cho câu nói “Thiên
khai ư Tí, Địa tịch ư Sửu, Nhân sinh ư Dần 天開於 子, 地闢於丑, 人生於寅.” Theo cách dịch của người khác thì “Thiên
khai ư Tí ” có nghĩa là “Trời khai triển từ Hội
Tí.” Ở đây thì chúng ta không đủ khả
năng để quyết đoán chuyện khai thiên lập địa cho nên chỉ muốn bàn luận trên cơ
sở có thể nắm bắt được và theo đó chúng ta hiểu Thiên là Càn, là Dương và Khai 開 là mới, là bắt đầu, hàm ý chỗ bắt đầu của một chu kỳ mới. “Thiên khai ư Tí” có nghĩa là khí Dương bắt đầu ở Càn Tí. Mà đã là chỗ bắt đầu của một chu kỳ mới thì cũng
là chỗ chấm dứt của một chu kỳ cũ trong vòng tròn sinh hoá không ngừng nghĩ. Như vậy thì chỗ KHAI mở ra chu kỳ mới phải được
hiểu ngầm cũng là chỗ BẾ 閉 tức đóng lại chu kỳ cũ. Tại cái mốc KHAI/BẾ đó trong chu kỳ vận hành
của khí thì đó là điểm cực âm. Mà âm cực
thì dương sinh. “Địa
tịch ư Sửu được người khác hiểu là “Đất mở từ Hội Sửu.” Ở đây chúng ta hiểu
Tịch là lặng lẽ. Và “Địa
tịch ư Sửu có nghĩa là Đất lặng lẽ ở Sửu.
Tại sao lặng lẽ ở Sửu? Vì thời tiết
cực lạnh của mùa Đông. Địa ở đây là Hàn
Thổ, là đất nằm ở vị trí Quí Sửu thời điểm mà tiết khí Tiểu Hàn và Đại Hàn bao
trùm mặt đất, lúc mà tất cả sinh vật đều đi vào đông miên. Vì không còn thấy được cái sinh động của sự sống
nên nói là lặng lẽ. Tịch 寂 ở đây phải là lặng lẽ.
Vì nếu Tịch 闢 là mở, là vỡ đất ra làm ruộng thì
thử hỏi làm sao làm ruộng ở tiết khí Đại Hàn?
Địa ỡ đây không phải là Khôn như có người lầm tưởng để rồi cho rằng Khôn
nằm cạnh Càn là hợp lý và dùng đó để triển khai hý luận, điên đảo qui luật căn
bản Càn-Khôn. Tuy thể hiện của thiên
nhiên lúc này là sự lặng lẽ bao trùm trên mặt đất, nhưng bên dưới sự lặng lẽ đó
khí Dương vẫn tiếp tục âm thầm tăng trưởng để rồi đến Dần thì bộc lộ ra bên ngoài
thành sự sống tưng bừng. “Nhân sinh ư
Dần” được người khác hiểu là “Người sinh ra ở Hội
Dần.” “Nhân” cũng là một phần tử của cộng đồng “vạn vật.” Chỉ vì người có
tánh linh hơn hết nên được chọn làm đại biểu của vạn vật. Vì thế chúng ta hiểu “Nhân sinh ư Dần” có nghĩa là “người và vạn vật đều
sinh ra ở Dần,” tức là tại vị trí Tốn +3 Giáp trên Việt
Dịch Đồ. Và tương quan này thể hiện rất
rõ ở mốc SINH trong vòng tròn sinh hóa của vạn vật với mốc SINH trong vòng tròn
sinh hóa của con người. Tương quan đó được
đại diện qua cụm “Tốn +3 Giáp.” Trở lại
với chu kỳ KHAI/BẾ, chúng ta đừng quên SINH rất khác với KHAI. SINH là chỗ sự sống của vạn vật bộc lộ ra
bên ngoài, là chỗ cây cỏ chui ra khỏi đất, là chỗ con người chui ra khỏi bụng mẹ. KHAI là chỗ khí Dương bắt đầu, là chỗ khí Âm
cực thịnh trong chu kỳ chuyển dịch của khí.
Chu kỳ KHAI/BẾ của vạn vận cũng giống như chu kỳ ĐẾN/ĐI của
con người. Còn chu kỳ SINH-TỬ của vạn vật
cũng giống với chu kỳ ĐẺ RA - HẾT THỞ của con người. Như vậy thì, cái mốc KHAI tại Tí và cái mốc
SINH tại Giáp không phải là nguyên lý để cho ngũ hành nạp âm khai sinh/khởi đầu
từ Giáp Tí hay sao? KHAI từ mốc Tí và BẾ
tại mốc Tí là trọn một chu kỳ KHAI/BẾ thì tại mốc Ngọ không phải là được nửa
chu kỳ và cũng là nơi bắt đầu một nửa chu kỳ còn lại của KHAI/BẾ hay sao? Như vậy thì, cái mốc Ngọ của chu kỳ KHAI/BẾ và
cái mốc SINH tại Giáp không phải là nguyên lý để khởi nạp âm cho 30 năm sau của
hoa giáp tại Giáp Ngọ đó hay sao?
Như vậy thì câu hỏi những nguyên lý và quy luật nạp âm tựa
trên nền tảng nào mà có đã được trả lời một cách cặn kẽ rồi phải không? Vâng, đúng là dựa trên nền tảng của Việt Dịch
Đồ. Tất cả nguyên lý và quy luật nạp
âm đều dựa trên nền tảng của Việt Dịch Đồ.
Hay nói một cách khác cho hợp với “timeline” hơn là: Việt Dịch Đồ có
khả năng giải thích tất cả các nguyên lý và quy luật nạp âm của LTHG. Hoặc là: Việt Dịch Đồ có khả năng chứng
minh sự hợp lý và thâm ảo của LTHG qua những nguyên lý và quy luật nạp âm ẩn tàng
bên trong.
Việt Dịch Đồ là bức đồ họa, có lẽ là duy nhất trên mặt đất
và duy nhất từ trước nay, tự nó đã có khả năng “hiển bày” những quy luật mà không
cần thêm một lời sự biện giải rối ren nào khác.
Mọi biện giải tùy tiện chỉ làm mọi thứ vốn đã mơ hồ càng thêm mơ hồ, vốn
đã khó hiểu càng thêm khó hiểu. Chính vì
vậy mà trong sách Việt Dịch mới nói Việt Dịch Đồ “là
‘một kết hợp trọn vẹn và kỳ ảo’ là vì việc trời, việc đất, việc người đồng thể
hiện.” và giải
thích thêm rằng “Được cho là trọn vẹn và kỳ ảo là vì lý của trời, lý của đất,
lý của người đồng thể hiện. Được cho là
trọn vẹn và kỳ ảo là vì lý sự của cá nhân, lý sự của tập thể, lý sự của nhân loại
đồng thể hiện. Được cho là trọn vẹn và kỳ
ảo là vì lý sự vô hình, lý sự hữu hình, lý sự qui ước đồng thể hiện. Được cho là trọn vẹn và kỳ ảo là vì nó hàm chứa
minh triết của đông phương. Được cho là
trọn vẹn và kỳ ảo là vì nó vạch ra phạm trù đồng quy và hiệp nhất của các giáo
lý đông tây.”
Nếu chúng ta nghĩ là những giải trình vừa rồi chưa được thuyết
phục lắm hoặc nghĩ rằng giá trị của Việt Dịch Đồ có vẽ “bị
cường điệu” thì chúng ta cứ hãy để cho Việt Dịch giải mã những bí ẩn còn lại của
LTHG, ngay trong bước kế tiếp, để chứng thực giá trị của nó.
Bí ẩn còn lại của LTHG?
Đúng! Tôi muốn nói đến nội dung của
bảng LTHG. Từ trước đến nay tên gọi của từng
mệnh niên đã được giải thích rất là nhiều.
Nhưng khi mà lý thuyết ngũ hành phổ cập đã không thể giải thích được quy
luật vận hành của hành khí Âm, như đã phân tích qua, là căn bản cho những quy
luật nạp âm thì thử hỏi làm sao nó có đủ khả năng giải thích một cách ổn thỏa được
nội dung của LTHG, là “cái quả”
của căn bản và những quy luật đó??? Chưa
hết, khi mà Văn Vương Hậu Thiên Bát Quái đã là một sản phẩm sai lạc từ căn bổn
thì làm sao có thể dùng nó để mà giải thích nội dung của LTHG một cách chính
xác được? Hãy thử đọc qua giải thích của
Đào Tông Nghi dưới đây để cảm nhận cái gọi là “nonsense” trong lý luận, nói cho
đúng thì là hý luận, của học giả và danh sư người Hoa.
Trích dẫn:
“Giáp Tí - Ất
Sửu là Hải Trung Kim. Tí thuộc Thủy lại là cái hồ, lại là đất vượng của Thủy,
kiêm Kim tử ở Tí, Mộ ở Sửu, Thủy vượng mà Kim tử Mộ, vì vậy đặt là Hải Trung
Kim (vàng dưới biển).
Bính Dần - Đinh Mão là Lô Trung Hỏa, Dần là tam Dương, Mão
là tứ Dương (thuộc quẻ Đại Tráng của 12 quẻ tiêu tức) nên Hỏa đã đắc địa, lại được
Mộc của Dần Mão mà sinh ra như thế thời đó trời đất như mở lò ra, vạn vật bắt đầu
sinh vì vậy gọi là Lô Trung Hỏa (lửa trong lò).
Mậu Thìn - Kỷ Tỵ là Đại Lâm Mộc. Thìn là chốn thôn dã. Tỵ
là lục Dương (thuần Dương, Tỵ là quẻ Càn của 12 quẻ tiêu tức), Mộc đến lục Dương
thì cành tốt tươi, lá rậm rạp phong phú. Lấy sự tốt tươi thịnh vượng của Mộc mà
vốn ở chốn thôn dã, vì vậy đặt là Đại Lâm Mộc (cây rừng lớn).
Canh Ngọ - Tân Mùi là Lộ
Bàng Thổ, Mộc ở trong Mùi (vì Mùi tàng Can Ất) mà sinh vượng Hỏa của ngôi vị Ngọ.
Hỏa vượng thì Thổ bị đốt khô đi, Mùi có thể nuôi nấng vạn vật, giống như lộ
bàng thổ, vì vậy đặt là Lộ Bàng Thổ (đất bên đường).
Nhâm Thân - Quý Dậu là
Kiếm Phong Kim. Thân Dậu là chính vị của Kim, Kim Lâm Quan ở Thân, Đế Vượng ở Dậu,
Kim đã sinh vượng thì thành cương (là thép) vậy, cương thì vượt hơn ở kiếm
phong, vì vậy đặt là Kiếm Phong Kim (kim mũi kiếm).
Giáp Tuất - Ất Hợi là Sơn Đầu Hỏa. Tuất Hợi là thiên Môn, Hỏa chiếu thiên môn, ánh sáng của nó lên rất cao, chí cao vô thượng, vì vậy đặt là Sơn Đầu Hỏa (lửa đầu núi).
Bính Tí - Đinh Sửu là Giản Hạ Thuỷ. Thủy vượng ở Tí, suy ở Sửu, vượng mà lật lại là suy thì không thể là giang hà (sông lớn) được, vì vậy đặt là Giản Hạ Thủy (nước dưới khe).
Mậu Dần - Kỷ Mão là Thành Đầu Thổ. Thiên Can Mậu Kỷ thuộc thổ của Dần là Cấn sơn, thổ tích lại mà thành núi, vì vậy đặt là Thành Đầu Thổ (đất đầu thành).
Canh Thìn - Tân Tỵ là Bạch Lạp Kim (hợp Kim của thiết và chì), Kim Dưỡng ở Thìn, Sinh ở Tỵ hình chất mới sơ thành, chưa thể vững chắc ích lợi được, vì vậy đặt là Bạch Lạp Kim (kim trong nến).
Nhâm Ngọ - Quý Mùi là Dương Liễu Mộc. Mộc Tử ở Ngọ, Mộ ở Mùi, Mộc đã Tử Mộ tuy được Thủy của Thiên Can Nhâm Quý sinh để sống, chung lại là nhu nhược, vì vậy đặt là Dương Liễu Mộc (cây dương liễu).
Giáp Thân - Ất Dậu là Tỉnh Tuyền Thuỷ. Kim Lâm Quan ở Thân, Đế Vượng ở Dậu, Kim đã vượng thì Thủy do đó sinh ra, như vậy là mới đang lúc sinh ra, lực lượng chưa lớn, vì vậy đặt là Tỉnh Tuyền Thủy (nước dưới suối).
Bính Tuất - Đinh Hợi là Ốc Thượng Thổ. Bính Đinh thuộc Hỏa, Tuất Hợi là thiên môn, Hỏa đốt cháy ở trên thì Thổ không ở dưới mà sinh ra được, vì vậy đặt là Ốc Thượng Thổ (đất trên nóc nhà).
Mậu Tí - Kỷ Sửu là Tích Lịch Hỏa. Sửu Tí thuộc Thủy, Thủy cư ở chính vị mà nạp âm chính là Hỏa, Hỏa ở trong Thủy nếu không phải là Thần Long thì không thể làm được, vì vậy đặt là Tích Lịch Hỏa (lửa sấm sét).
Canh Dần - Tân Mão là Tùng Bách Mộc. Mộc Lâm Quan ở Dần, Đế Vượng ở Mão, Mộc đã vượng thì không thể nhu nhược được, vì vậy đặt là Tùng Bách Mộc (gỗ cây tùng, bách).
Nhâm Thìn - Quý Tỵ là Trường Lưu Thuỷ. Thìn là Mộ của Thủy, Tỵ là nơi Kim Sinh, Kim sinh thì Thủy tính đã giữ lại, lấy Mộ Thủy mà gặp sinh Kim thì nguồn suối không cạn, vì vậy đặt là Trường Lưu Thủy (nước nguồn).
Giáp Ngọ - Ất Mùi là Sa Thạch Kim. Ngọ là đất Hỏa Vượng, Hỏa vượng thì Kim chảy ra, Mùi là đất Hỏa Suy, Hỏa suy thì Kim Quan Đái. Hỏa Suy mà Kim Quan Đái thì Mùi có thể thịnh mãn, vì vậy đặt là Sa Thạch Kim (kim trong cát).
Bính Thân - Đinh Dậu là Sơn Hạ Hỏa. Dậu là cửa nhập của nhật (Mặt Trời lặn), nhật đã đến ở thời đó thì ánh sáng tàng ẩn, vì vậy đặt là Sơn Hạ Hỏa (lửa dưới núi).
Mậu Tuất - Kỷ Hợi là Bình Địa Mộc. Tuất nguyên là chốn thôn dã, Hợi là đất Mộ sinh ra, Mộc sinh ra ở chốn thôn dã thì không thể là một rễ cây, một gốc cây, vì vậy đặt là Bình Địa Mộc (cây ở đồng bằng).
Canh Tí - Tân Sửu là Bích Thượng Thổ. Sửu tuy là chính vị nhà của Thổ, mà Tí là đất của Thủy vượng, Thổ gặp Thủy nhiều thành là bùn, vì vậy đặt là Bích Thượng Thổ (đất trên vách).
Nhâm Dần - Quý Mão là Kim Bạc Kim. Dần Mão là đất của Mộc vượng, Mộc vượng thì Kim gầy yếu; lại nữa, Kim Tuyệt ở Dần, Thai ở Mão. Kim đã vô lực vì vậy đặt là Kim Bạc Kim (kim pha bạc).
Giáp Thìn - Ất Tỵ là Phú Đăng Hỏa. Thìn là thực thời (giờ ăn), Tỵ là ở trong khu vực, trong tướng của nhật, Dương rực rỡ, thế sáng sủa, phong quang ở thiên hạ, vì vậy đặt là Phú đăng Hỏa (lửa đèn lồng).
Bính Ngọ - Đinh Mùi là Thiên Hà Thuỷ. Bính Đinh thuộc Hỏa, Ngọ là đất Hỏa vượng, mà nạp âm chính là Thủy, Thủy từ Hỏa xuất ra, nếu không phải là ngân hà thì không thể có nước nầy, vì vậy đặt là Thiên Hà Thủy (nước trên ngân hà, nước sông trên trời).
Mậu Thân - Kỷ Dậu là Đại Dịch Thổ. Thân là Khôn, Khôn là địa, Dậu là Đoài, Đoài là trạch (đầm). Thổ của Mậu Kỷ gia lên trên địa trạch nầy chẳng phải cái nào khác là Thổ phù bạc, vì vậy đặt là Đại Dịch Thổ (khu đất rộng lớn).
Canh Tuất - Tân Hợi là Thoa Xuyến Kim. Kim đến Tuất mới Suy, đến Hợi mới Bệnh thì đúng thật là nhu vậy, vì vậy đặt là Thoa Xuyến Kim (kim trâm thoa hay vàng trang sức).
Nhâm Tí - Quý Sửu là Tang Chá Mộc. Tí thuộc Thủy, Sửu thuộc Kim, Thủy sinh Mộc còn Kim khắc Mộc (Mộc mới sinh thì yếu giống như cây tang chá), vì vậy đặt là Tang Chá Mộc (gỗ cây dâu).
Giáp Dần - Ất Mão là Đại Khê Thủy, Dần là góc Đông Bắc, Mão là chính Đông, Thủy chảy chính Đông (“chúng Thủy triều Đông” – muôn nhánh sông đều chảy về phương Đông) thì thuận tính nó, nên sông suối, khe, ao, đầm, hồ đều hợp với nhau mà quay trở về, vì vậy đặt là Đại Khê Thủy (nước ở khe lớn, nước lũ).
Bính Thìn - Đinh Tỵ là Sa Trung Thổ. Thổ Mộ ở Thìn, Tuyệt ở Tỵ mà Hỏa của Thiên Can Bính Đinh đến Thìn là Quan Đái, đến Tỵ là Lâm Quan, Thổ đã Mộ Tuyệt, vượng Hỏa quay lại sinh Thổ, vì vậy đặt là Sa Trung Thổ (đất lẫn trong cát).
Mậu Ngọ - Kỷ Mùi là Thiên Thượng Hỏa, Ngọ là đất Hỏa vượng, Mộc ở trong Mùi lại phục sinh, tính Hỏa cháy ở trên, lại gặp sinh địa, vì vậy đặt là Thiên Thượng Hỏa (lửa trên trời).
Canh Thân - Tân Dậu là Thạch Lựu Mộc. Thân là tháng 7, Dậu là tháng 8, thời ấy thì là Mộc tuyệt vậy, duy mộc của thạch lựu, trái lại bền chắc, vì vậy đặt là Thạch Lựu Mộc (gỗ cây thạch lựu).
Nhâm Tuất - Quý Hợi là Đại Hải Thuỷ. Thủy Quan Đái ở Tuất, Lâm Quan ở Hợi, Thủy vượng thì lực hậu (dầy), kiêm Hợi là giang (sông lớn) nên lực mạnh thế tráng, không phải Thủy ấy thì không thể như thế, vì vậy đặt là Đại Hải Thủy (nước trong biển lớn).”
Ngưng trích dẫn.
Qua đoạn trích dẫn trên
không khó để chúng ta nhận ra sự vay mượn từ bên ngoài trong cố gắng giải thích
nội dung của LTHG. Và mặc dầu đã vay mượn
và cố gắng nhưng những giải thích của Đào Tông Nghi vẫn là “nonsense.” Chả trách sao học giả NVTA đã nói “Ông Đào
Tông Nghi chỉ tìm cách giải thích một hiện tượng đã có sẵn. Nói theo ngôn ngữ
dân gian: ‘Gọt chân cho vừa giầy’. Bởi vậy lập luận cũng không tránh khỏi quanh
co, khiên cưỡng và mâu thuẫn.” Đào Tông Nghi
không phải là trường hợp cá biệt hiếm hoi.
Nó là hiện tượng chung của học giả và danh sư lý số Trung Hoa. Bây giờ thì chúng ta hãy thử nghe Việt Dịch
giải thích.
No comments:
Post a Comment