Wednesday, November 3, 2010

Giải Mã Bí Ẩn Lục Thập Hoa Giáp - Hà Hưng Quốc (#5)



Những bí ẩn của Lục Thập Hoa Giáp hoàn toàn phơi bày dưới lăng kính Việt Dịch. Cách tiếp cận mới đưa đến những khám phá lạ khiến chúng ta tự hỏi phải chăng tổ tiên Lạc Việt mới chính là chủ nhân đích thực của Bảng Lục Thập Hoa Giáp?




5. DẤU ẤN LẠC VIỆT TRONG BẢNG LTHG
Trong phần này chúng ta sẽ nhìn lại nội hàm của 30 tên gọi trong LTHG ở một góc độ khác để cảm nhận sự liên hệ của những nội hàm trong từng nhóm một.  Trước hết, sắp xếp lại trật tự của bảng LTHG bằng cách gom tất cả tên gọi liên quan đến hai địa chi Tí-Sửu thành một nhóm và gọi chúng là nhóm Tí-Sửu.  Sau đó chúng ta sẽ tiến hành giản hóa nội dung bằng cách dùng ký hiệu @ để thay cho nguyên cụm chữ trong/trên/của và chỉ giữ lạ phần tinh túy của nội hàm cùng ý nghĩa đã được giải mã.  Cuối cùng chúng ta sẽ tìm kiếm sự liên hệ của chúng.  Tiếp tục làm tương tự như vậy cho nhóm Dần-Mão, nhóm Thìn-Tỵ, nhóm Ngọ-Mùi, nhóm Thân-Dậu và nhóm Tuất-Hợi.  Và bây giờ thì chúng ta bắt tay vào việc.

Nhóm Tí-Sửu:
Giáp Tí & Ất Sửu - Hải Trung Kim:    
Nội Hàm: Sắt@Nước
Hình Ảnh:  Muối Biển
Bính Tí & Đinh Sửu – Giáng Hạ Thủy:
Nội Hàm: Nước@Nước
Hình Ảnh: Sương Mù Trên Biển  
Mậu Tí & Kỷ Sửu – Phích Lịch Hỏa:
Nội Hàm: Lửa@Nước
Hình Ảnh: Dạ Quang Của Sóng Biển
Canh Tí & Tân Sửu Bích Thượng Thổ:
Nội Hàm: Đất@Nước
Hình Ảnh: Hải Đảo
Nhâm Tí & Quý Sửu – Tang Đố Mộc:
Nội Hàm: Cây@Nước
Hình Ảnh : Mộ Thuyền

Nhìn vào nhóm Tí-Sữu chúng ta thấy 5 nội hàm là Sắt@Nước, Nước@Nước, Lửa@Nước, Đất@Nước, và Cây@Nước.  Cả 5 nội hàm này đều có chung một bối cảnh: NƯỚC.  Rồi trên cái bối cảnh chung “trời nước mênh mông xanh biếc” đó có 5 cận cảnh khác nhau. Chúng ta thấy có muối biển, có sương mù giăng phủ trên mặt biển, có những hải đảo trên biển nằm trong tầm nhìn, có ánh dạ quang (lân tinh) ngời trên mặt biển trong đêm tối, có cả mộ thuyền thủy táng.  Như vậy bộ ảnh 5 tấm này cho thấy không phải chỉ là một hình ảnh trời nước mênh mông “chung chung” mà chúng xác định rất rõ (a) một vùng địa hình nằm ven biển và (b) có một nét văn hóa đặc thù là dùng mộ thuyền để thủy táng. 
              
Nhóm Tuất-Hợi:   
Giáp Tuất & Ất Hợi – Sơn Đầu Hỏa:
Nội Hàm: Lửa@Đất
Hình Ảnh: Đỉnh Núi Lửa Đang Nóng 
Bính Tuất & Đinh Hợi - Ốc Thượng Thổ:
Nội Hàm: Đất @Đất
Hình Ảnh: Phù Sa
Mậu Tuất & Kỷ Hợi – Bình Địa Mộc:
Nội Hàm: Cây@Đất
Hình Ảnh: Cây Lúa Nước
Canh Tuất & Tân Hợi – Xuyến Xoa Kim:
Nội Hàm: Sắt@Đất
Hình Ảnh: Cái Cày
Nhâm Tuất & Quý Hợi - Đại Hà Thủy:
Nội Hàm: Nước@Đất
Hình Ảnh : Sông Lớn
               
Nhìn vào nhóm Tuất-Hợi chúng ta thấy 5 nội hàm là Lửa@Đất, Đất@Đất, Cây@Đất, Sắt@Đất, Nước@Đất.  Cả 5 nội hàm đều có chung một bối cảnh: ĐẤT.  Trên cái nền chung đó, bộ ảnh 5 tấm cho thấy 2 nhóm cận cảnh khác nhau.  Nhóm cận cảnh thứ nhất là hình ảnh của núi lửa đang hoạt động và núi lửa nằm ở một khoảng cách rất xa từ vị trí quan sát (cho nên chỉ nhìn thấy chỏm núi đang tỏa sáng).  Nhóm cận cảnh thứ hai là hình ảnh có sông lớn, có phù sa, có cây lúa nước, có cái cày.  Như vậy, những hình ảnh trong nhóm Tuất-Hợi không nói về đất chung chung mà nó xác định rất rõ (a) địa hình của một vùng đồng bằng rộng tại một lưu vực sông lớn; (b) từ vị trí này có thể nhìn thấy núi lửa ở đàng xa.  Nó cũng cho thấy hình ảnh của một xã hội nông nghiệp, đặc biệt là biết trồng lúa nước, biết kỹ thuật luyện kim và biết chế tạo dụng cụ canh tác. 

Nhóm Thìn-Tỵ:
Mậu Thìn & Kỷ Tỵ - Đại Lâm Mộc:
Nội Hàm: Cây@Đất nhiều mưa
Hình Ảnh : Rừng
Canh Thìn & Tân Tỵ - Bạch Lạp Kim:
Nội Hàm: Sắt@Đất nhiều mưa
Hình Ảnh : Lúa Gạo
Nhâm Thìn & Quý Tỵ - Trường Lưu Thủy:
Nội Hàm: Nước@Đất nhiều mưa
Hình Ảnh : Ngòi, Rạch, Sông, Suối . . .
Giáp Thìn & Ất Tỵ - Phúc Đăng Hỏa:
Nội Hàm: Lửa@Đất nhiều mưa
Hình Ảnh: Đom Đóm, Côn Trùng
Bính Thìn & Đinh Tỵ - Sa Trung Thổ:
Nội Hàm: Đất@Đất nhiều mưa
Hình Ảnh: Đất Sét Làm Đồ Gốm 
                   
Nhìn vào nhóm Thìn-Tỵ chúng ta thấy có 5 nội hàm là Cây@Đất nhiều mưa, Sắt@Đất nhiều mưa, Nước@Đất nhiều mưa, Lửa@Đất nhiều mưa, và Đất@Đất nhiều mưa.  Cả 5 nội hàm đều có chung một bối cảnh : VÙNG ĐẤT NHIỀU MƯA VÀ KHÍ HẬU NÓNG.  Rồi nhìn vào 5 cận cảnh khác nhau trên cái nền chung đó chúng ta thấy có rừng cây, có sông suối rạch ngòi, có đất sét làm đồ gốm, có lúa gạo, có những đàn đóm lập lòe trong đêm.  Như vậy, những cận cảnh này đã xác định vị trí địa dư của một vùng có khí hậu nhiệt đới.  
Nhóm Ngọ-Mùi:
Canh Ngọ & Tân Mùi - Lộ Bàng Thổ:
Nội Hàm: Đất@Lửa
Hình Ảnh: Đất Đồng Nứt Nẻ Giữa Nắng Trưa Mùa Hè
Nhâm Ngọ & Quý  Mùi - Dương Liễu Mộc:
Nội Hàm: Cây@Lửa
Hình Ảnh : Hoa Thạch Lựu Nở Đỏ Vào Mùa Hè
Giáp Ngọ & Ất Mùi – Sa Trung Kim:
Nội Hàm: Sắt@Lửa
Hình Ảnh : Ánh Trăng Đêm Hè
Bính Ngọ & Đinh Mùi – Thiên Hà Thủy:
Nội Hàm: Nước@Lửa
Hình Ảnh : Giải Thiên Hà Trong Đêm Hè
Mậu Ngọ & Kỷ Mùi – Thiên Thượng Hỏa:
Nội Hàm: Lửa@Lửa
Hình Ảnh : Mặt Trời Mọc Trong Mùa Hè

Nhìn vào nhóm Ngọ-Mùi chúng ta thấy có 5 nội hàm là Đất@Lửa, Cây@Lửa, Sắt@Lửa, Nước@Lửa, và Lửa@Lửa.  Cả 5 nội hàm đều có chung một bối cảnh: KHÔNG GIAN.  Rồi nhìn vào 5 cận cảnh khác nhau trên cái nền chung đó chúng ta thấy có bình minh lực lửa một góc hướng Đông, có mặt trời ban trưa thiêu đốt những cánh đồng, có trăng đêm toả vàng như màu sa mạt cát, có dãy Ngân Hà sáng trắng như dòng sông trên đầu, và có cây thạch lựu nở hoa đỏ ối.  Tất cả đều ở vào mùa hè.  Những hình ảnh này thêm một lần nữa xác định vị trí địa dư của một vùng ven biển và có khí hậu nhiệt đới.

Nhóm Thân-Dậu:
Nhâm Thân & Quý Dậu - Kim Phong Kim:
Nội Hàm: Sắt@Sắt
Hình Ảnh : Núi Đá Nham
  Giáp Thân & Ất Dậu - Tuyền Trung Thủy:
Nội Hàm: Nước@Sắt
Hình Ảnh : Hồ Nước Miệng Tròn Trên Đỉnh Núi Lửa
Bính Thân & Đinh Dậu - Sơn Hạ Hỏa:
Nội Hàm: Lửa@Sắt
Hình Ảnh : Dung Nham Nóng Chảy Dưới Chân Núi
Mậu Thân & Kỷ Dậu - Đại Trạch Thổ:
Nội Hàm: Đất@Sắt
Hình Ảnh: Hồ Lớn Xanh Sẫm Do Núi Lửa Tạo Ra
Canh Thân & Tân Dậu - Thạch Lựu Mộc:
Nội Hàm: Cây@Sắt
Hình Ảnh : Cây Dương Xỉ   

Nhìn vào nhóm Thân-Dậu chúng ta thấy được gì với 5 nội hàm là Sắt@ Sắt, Nước@Sắt, Lửa@Sắt, Đất@Sắt, Cây@Sắt.  Cả 5 nội hàm đều có chung một bối cảnh: NÚI LỬA.  Trên cái nền đó chúng ta thấy có hai nhóm cận cảnh.  Nhóm cận cảnh thứ nhất là hình ảnh núi lửa đã ngưng hoạt động. Chúng ta thấy có hồ miệng tròn ngay trên đỉnh, hồ lớn xanh sẫm chiếm một vùng đất rộng, núi đá nham.  Tất cả do núi lửa tạo ra.  Và loài cây dương xỉ mọc trên vùng đất núi lửa.  Nhóm cận cảnh thứ hai là hình ảnh núi lửa đang hoạt động.  Chúng ta thấy dung nham nóng đang chảy dưới chân núi.  tất cả những hình ảnh này đều nằm ngay tại hoặc rất gần chỗ vị trí quan sát.  Như vậy, những hình ảnh này một lần nửa xác định địa dư của một  vùng đất có núi lửa.

Núi lửa là núi có miệng ở đỉnh, qua đó, từng thời kỳ, các chất khoáng nóng chảy với nhiệt độ và áp suất cao bị phun ra ngoài. Núi lửa phun là một hiện tượng tự nhiên trên Trái Đất hoặc các hành tinh vẫn còn hoạt động địa chấn khác, với các vỏ thạch quyển di chuyển trên lõi khoáng chất nóng chảy. Khi núi lửa phun, một phần năng lượng ẩn sâu trong lòng hành tinh sẽ được giải phóng.  Trên thế giới, Indonesia, Nhật Bản và Mỹ được xem là ba nước có nhiều núi lửa đang hoạt động nhất, theo thứ tự giảm dần về mức độ hoạt động.

Năm dạng phun của núi lửa -- Sức phun mạnh của núi lửa tuỳ thuộc áp suất từ lòng đất và độ đặc của dung nham. Thêm vào đó, do những nguyên nhân khác nhau về địa chất và cấu tạo, núi lửa có nhiều dạng phun. Một số bùng lên phun dữ dội, huỷ diệt mọi thứ trong đường kính hơn 3 km chỉ trong vài phút. Trái lại, một số khác trào dung nham ra chậm đến nỗi người ta có thể bước đi an toàn xung quanh nó. (1) Dạng khủng khiếp - Áp suất khủng khiếp từ bên dưới dẩy tung dung nham lên cao nhiều km, với vận tốc cả trăm mét mỗi giây. Sức phun này có thể kéo dài nhiều giờ, thậm chí nhiều ngày liên tục, tạo thành một luồng khí rất dài, xuôi theo chiều gió. Trong khi đó, dung nham tràn rất nhanh, huỷ diệt tất cả mọi vật ở nơi nó tràn đến. (2) Dạng phun Hawaii - Đặt tên như vậy vì dạng phun này rất phổ biến tại các núi lửa vùng Hawaii (Mỹ). Thông thường, nó không bùng nổ và huỷ diệt nhiều, cũng không tung thẳng lên trên nhiều chất liệu mà chỉ phun ra dòng dung nham lỏng, chảy chậm.  Điều gây ấn tượng của dạng này là núi phun một cột lửa thẳng lên không trung, cao trên trăm mét trong nhiều phút, có khi nhiều giờ liền. Dung nham có thể trào ra từ một vết nứt lớn trong lòng núi, tạo thành hồ trên đỉnh, hoặc nhiều hồ nhỏ tại những chỗ khác nơi sườn núi. Dòng dung nham và những tia lửa có thể tàn phá cây cối, vườn tược xung quanh, nhưng người ta vẫn đủ thời gian để di tản an toàn vì dung nham chảy rất chậm. (3) Dạng gây ấn tượng mạnh nhưng ít nguy hiểm - Có nhiều đợt phun ngắn và mạnh, tiếng rền vang nghe dễ sợ. Chỉ có một ít dung nham bắn tung lên cao khoảng 100 m. Dung nham tràn ra tương đối ít, tạo thành một vài dòng chảy. (4) Nhiều tiếng nổ, phun tro và đá - Dạng này cũng có nhiều tiếng nổ nhưng chỉ phun tro và đá, loại đá magma nóng chảy dưới lòng đất. Áp suất của khí dồn nén, tăng lên rất cao và đẩy tung đá lên trên. Ngoài tro bụi còn có các phún thạch cỡ quả bóng bắn lên không trung. Dạng này thường không có dung nham chảy. (5) Dạng phun có hơi nước - Khi núi lửa hoạt động gần đại dương hoặc các vùng ẩm ướt, hoặc nhiều mây dày đặc, sự tương tác giữa đá nóng magma và nước làm nước biến thành hơi rất nhanh. Có những đợt nổ tung trong thời gian ngắn. Tro được phun lên theo chiều thẳng đứng, kết hợp với hơi nước rơi xuống có thể tạo thành bùn trượt. 

Không phải lúc nào dung nham từ lòng đất trào lên cũng có vụ nổ đi kèm. Còn một dạng dung nham trào lên qua vết nứt quanh chân núi lửa. Trong trường hợp này, một bức màn lửa phụt lên dài theo đường nứt và dung nham tràn lên. Mặc dù chảy chậm nhưng lượng dung nham rất lớn.  Núi lửa có những chu kỳ hoạt động khác nhau. Hiện các nhà khoa học phân loại núi lửa theo tính cách hoạt động của chúng: (1) Núi lửa cho thấy dấu hiệu hoạt động, như có địa chấn hoặc miệng núi lửa toả ra hơi, được gọi là núi lửa đang hoạt động; (2) Núi lửa ngưng hoạt động từ mười nghìn năm nay nhưng có tiềm năng bùng nổ trở lại, gọi là núi lửa ngủ; (3) Núi lửa ngưng hoạt động từ mười nghìn năm nay, và có dấu hiệu rõ nguồn đá magma bên dưới đã cạn kiệt, gọi là núi lửa tắt hẳn. (Trích: Bạn Biết Gì Về Núi Lửa? -- nick GS.Uno)

Nhóm Dần-Mão:
Bính Dần & Đinh Mão – Lư Trung Hỏa:
Nội Hàm: Lửa@Cây
Hình Ảnh : Rừng Đang Cháy
Mậu Dần & Kỷ Mão – Thành Đầu Thổ:
Nội Hàm: Đất@Cây
Hình Ảnh : Cao Nguyên
Canh Dần & Tân Mão - Tòng Bá Mộc:
Nội Hàm: Cây@Cây
Hình Ảnh : Rừng Tùng Bách
Nhâm Dần & Quí Mão – Kim Bạc Kim:
Nội Hàm: Sắt@Cây
Hình Ảnh : Rừng Núi Bị Tro Phủ Kín
Giáp Dần & Ất Mão - Đại Khê Thủy:
Nội Hàm: Nước@Cây
Hình Ảnh : Suối Nước. Thác Nước

Nhìn vào nhóm Dần-Mão chúng ta thấy được gì với 5 nội hàm là Lửa@Cây, Đất@Cây, Cây@Cây, Sắt@Cây, Nước@Cây.  Cả 5 nội hàm đều có chung một bối cảnh: NÚI RỪNG.  Trên cái nền chung đó, cận cảnh cho chúng ta thấy núi đồi cao nguyên, thấy rừng tùng bách, thấy suối thác khe ghềnh, thấy rừng đang bốc cháy, thấy tro trắng phủ núi rừng.  Như vậy, những hình ảnh này xác định vị trí địa dư của một vùng cao nguyên.  Thêm vào đó nó gián tiếp cho biết có núi lửa trong vùng, qua hình ảnh cháy rừng và tro trắng phủ đầy núi rừng.       

Rồi từ 6 nhóm vừa trình bày chúng ta có thể kết hợp chúng thành 4 cụm thông tin: Cụm Biển, Cụm Đồng Bằng và Cụm Cao Nguyên, Cụm Khí Hậu.

Cụm Biển:
- Nhóm Tí-Sửu: Những hình ảnh trên biển.
- Nhóm Ngọ Mùi: Những hình ảnh trên bầu trời ven biển. 

Cụm Cao Nguyên:
- Nhóm Dần-Mão: Những hình ảnh vùng cao nguyên, có núi lửa.  
-  Nhóm Thân-Dậu: Những hình ảnh tiếp cận núi lửa.

Cụm Đồng Bằng:
-          Nhóm Tuất Hợi: Những hình ảnh đồng bằng và sông lớn, nhìn thấy cả núi lửa đang hoạt động ở một khoảng cách rất xa. 

Cụm Khí Hậu:
- Nhóm Thìn-Tỵ: Những hình ảnh khí hậu nhiệt đới
       
Với thông tin từ Cụm Biển chúng ta nhận ra là biển nằm ở phía Đông của vùng đất, xác định gián tiếp qua hình ảnh mặt trời mọc (thông tin từ nhóm Ngọ Mùi).  Với thông tin từ Cụm Cao Nguyên chúng ta nhận ra núi lửa nằm trên vùng cao nguyên (thông tin của nhóm Dần-Mão gián tiếp cho thấy).  Với thông tin của Cụm Đồng Bằng chúng ta nhận ra vị trí bình nguyên lưu vực sông lớn nằm tiếp giáp với biển.  Như vậy, biển thì nằm ở phía Đông (thông tin từ nhóm Ngọ-Mùi).  Đồng bằng nằm tiếp giáp với biển. Núi lửa thì nằm trên cao nguyên (thông tin từ nhóm Dần-Mão) một khoảng cách rất xa từ vị trí đồng bằng (thông tin từ nhóm Tuất-Hợi).  Vị trí rất xa ấy phải là hướng Tây, vì hướng Đông là biển và vì sông lớn chảy từ trên cao nguyên xuống đồng bằng rồi ra biển.             

Nghiệm qua nội dung của 6 nhóm và 4 cụm, có phải chăng chúng ta thấy những hình ảnh trong LTHG không phải là những hình ảnh rời rạt, tầm phào như Hán thư đã giải thích mà là những hình ảnh có hệ thống, có chủ đề và có chủ đích.  Chúng chứa đựng thông tin về địa hình, khí tượng, không gian, thời gian, hệ sinh thái, môi trường thiên nhiên, điều kiện phát triển kinh tế, trình độ kỹ thuật, tập tục và trình độ văn hóa của một xã hội cổ?  Hình ảnh chung quanh mà một người tiếp cận trong suốt một đời không phải là ít.  Nhưng chủ nhân sáng tạo ra LTHG đã biết chọn lọc những hình ảnh vô cùng có giá trị, không thua một chuyên gia nhà nghề của thời đại này, để mã hóa vào bảng LTHG, như là một “hồ sơ mật” của NGIA (National Geo-Spacial Intelligent Agency).  Điều này chứng tỏ một trình độ tuyệt vời.  Thêm vào đó, rõ ràng là những hình ảnh được chọn lọc để mã hóa có liên hệ mật thiết với xứ sở của người sáng tạo ra bảng LTHG.  Câu hỏi được đặt ra: ai là chủ nhân của LTHG?

Người ta cho rằng việc sắp xếp thành LTHG là công của Đại Nạo Thị nhưng việc nạp âm lại do Quỷ Cốc Tử,  tên thật là Vương Hủ, ẩn thân tu dưỡng tại hang quỷ cốc trong rừng Thanh Lâm vào cuối đời nhà Châu.  Sau đó ông Man Xiến Tử tức Đông Phương Sóc mới nối tiếp sự nghiệp của Quỷ Cốc Tử hoàn thành tượng và danh từ cho LTHG.[1]  Thật vậy sao?  Chúng ta có thể nào chấp nhận được giải thích này hay không?  Của người Hán sáng tạo mà sao danh sư lý số và học giả nổi tiếng Trung Hoa từ xưa đến nay lại ù ù cạc cạc?  Nói theo ngôn ngữ của học giả NVTA là “nếu như một nền văn minh mà tự nó phát minh ra hệ thống lý thuyết đó, thì tri thức xã hội của nó phải có cơ sở để tạo ra lý thuyết đó.  Cho đến nay theo tôi [NVTA] hiểu thì chính người Trung Quốc cũng không hiểu.”  Hình ảnh được mã hóa trong LTHG có thể nào là hình ảnh đặc trưng nơi xứ sở của Quỷ Cốc Từ và Đông Phương Sóc?  Không.  Người Hán không thể là chủ nhân sáng tạo ra LTHG.     
Tôi tin rằng đây rất có thể là một trong số những sản phẩm văn hóa của Lạc Việt.  Dựa trên cơ sở nào?  Để trả lời, tôi muốn hỏi ngược lại: hình ảnh của 6 tập hợp trên không phải là quen thuộc với chúng ta lắm hay sao, dầu là nhìn toàn diện hay là từng cận cảnh một?  Không phải là những hình ảnh trong 6 tập hợp trên trùng hợp khít khao với những hình ảnh của vùng đất phát tích Lạc Việt, một giống nòi đã một thời từng mang rìu đá đi mở cõi ở phương Bắc và có mặt khắp ngạn nam của sông Dương Tử để rồi sau đó hình thành một đất nước có lãnh thổ trải rộng lớn từ Động Đình xuống tới Hồ Tôn, từ Tây Thục ra tới Hải Nam đó hay sao?   
Đứng về phương diện khảo cứu nghiêm túc của một học giả, dĩ nhiên là bao nhiêu đó chưa đủ để chúng ta dám khẳng định.  Nhưng đứng về mặt trực giác riêng tư thì tôi nghĩ tự thân LTHG đã hé lộ khá nhiều bằng chứng để thuyết phục tôi rằng bản quyền văn hoá của Việt đã bị người Hán tướt đoạt từ nhiều ngàn năm trước.  Điều tôi hy vọng là sẽ có thật nhiều học giả của hôm nay và của mai sau dám quật mồ văn hoá và lịch sử tìm bằng chứng để đòi lại công lý cho tiên tổ và tái lập chổ đứng xứng đáng cho nền minh triết Việt.

Trước khi khép lại, tôi cũng xin mời tất cả hãy thử đọc một số văn bản của những học giả khác để thử nghiệm xem những thông tin trong nội hàm của LTHG có ăn khớp với thông tin khoa học và để mỗi chúng ta có cái kết luận cho chính mình.        

Văn minh lúa nước là một nền văn minh cổ đại xuất hiện từ cách đây khoảng 10.000 năm tại vùng Đông Nam ÁNam Trung Hoa. Nền văn minh này đã đạt đến trình độ đủ cao về các kỹ thuật canh tác lúa nước, thuỷ lợi, phát triển các công cụ và vật nuôi chuyên dụng. Chính sự phát triển của nền văn minh lúa nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của những nền văn hoá đương thời như Văn hóa Hemudu, Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Hòa Bình .v.v. Cũng có những ý kiến cho rằng, chính nền văn minh lúa nước là chiếc nôi để hình thành cộng đồng cư dân có lối sống định cư định canh và các giá trị văn hoá phi vật thể kèm theo, đó chính là văn hóa làng xã.  Các nhà khoa học như A.G. Haudricourt & Louis Hedin (1944), E. Werth (1954), H. Wissmann (1957), Carl Sauer (1952), Jacques Barrau (1965, 1974), Soldheim (1969), Chester Gorman (1970)... đã lập luận vững chắc và đưa ra những giả thuyết cho rằng vùng Đông Nam Á là nơi khai sinh nền nông nghiệp đa dạng rất sớm của thế giới. Quê hương của cây lúa, không như nhiều người tưởng là ở Trung Quốc hay Ấn Độ, mà thực ra là ở vùng Đông Nam Á vì vùng này khí hậu ẩm và có điều kiện lí tưởng cho phát triển nghề trồng lúa. Theo kết quả khảo cổ học trong vài thập niên gần đây, quê hương đầu tiên của cây lúa là vùng Đông Nam Á, những nơi mà dấu ấn của cây lúa đã được ghi nhận là khoảng 10.000 năm trước Công Nguyên. Còn ở Trung Quốc, bằng chứng về cây lúa lâu đời nhất chỉ 5.900 đến 7.000 năm về trước, thường thấy ở các vùng xung quanh sông Dương Tử. Từ Đông Nam Á, nghề trồng lúa được du nhập vào Trung Quốc, rồi lan sang Nhật Bản, Hàn Quốc, những nơi mà cư dân chỉ quen với nghề trồng lúa mạch.  Ngày nay, giới khoa học quốc tế, kể cả các khoa học gia hàng đầu của Trung Quốc đồng thuận cho rằng quê hương của cây lúa nước là vùng Đông Nam Á và Nam Trung Hoa. Để khẳng định về các luận điểm cho một nền Văn minh lúa nước, chúng ta phải hiểu rằng việc trồng trọt, thu hoạch, cất giữ, chế biến thành thực phẩm từ sản phẩm của lúa nước là phải đạt đến một trình độ tiên tiến và đảm bảo sự thặng dư thực phẩm phục vụ cho một xã hội dân cư đông đúc và thúc đẩy các yếu tố khác của một nền văn minh ra đời.  Điều kiện cơ bản của Văn minh lúa nước:

A. Môi trường
- Lượng m­ưa hàng năm ở vào khoảng từ 2.000 - 2.500 mm,
- Vào thời kỳ tăng trưởng cần một lượng mưa vào khoảng 125 mm trong một tháng,
- Thời kỳ thu hoạch cần nhiều nắng (ruộng khô càng tốt),
- Nhiệt độ môi trường thích hợp nhất, khoảng 21 - 27°C,
- Cư dân phải có kinh nghiệm trong việc tưới và tiêu (thủy lợi)

B. Yếu tố khác
- Khu vực canh tác phải có độ bằng phẳng rất cần thiết để duy trì mực nước từ 100 mm đến 150 mm để giúp cho cây lúa tăng trưởng và kết hạt tốt.
- Chính vì vậy, những khu vực đồng bằng và các lưu vực các con sông chảy qua các miền nhiệt đới nhiều mưa sẽ là môi trường thận lợi cho cây lúa nước phát triển. Ví dụ như đồng bằng sông Hồng, lưu vực sông Dương Tử... thích hợp cho cây lúa nước.
- Thời vụ là yếu tố cũng quan trọng không kém cho cây lúa nước, điều này thúc đẩy việc sáng chế ra lịch tính ngày, tháng, năm và các mùa trong năm của các cư dân trồng lúa nước.
- Giống lúa cũng là một yếu tố tăng năng suất và phẩm chất cho cây lúa nước mà các cư dân trồng lúa nước đặc biệt coi trọng.

Các cuộc khảo cổ gần đây đã chứng minh sự tồn tại của con người trên lãnh thổ Việt Nam từ thời Đồ đá cũ. Vào thời kỳ Đồ đá mới, các nền văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn (gần 10.000 năm trước CN) đã chứng tỏ sự xuất hiện của nông nghiệp và chăn nuôi, có thể là cả nghệ thuật trồng lúa nước.  Các nhà khảo cổ tìm thấy trong lớp đất bên dưới khu khảo cổ thuộc Văn hóa Hòa Bình những hạt thóc hóa thạch khoảng 9260-7620 năm trước. Nhưng theo nhiều nhà khảo cổ, đa số di tích, di vật tìm thấy ở Thái Lan, khi định tuổi lại thấy muộn hơn nhiều so với tuổi định ban đầu trước đó khi người ta tìm thấy những di tích về văn minh lúa nước. Vết tích bữa cơm tiền sử nấu với gạo từ lúa mọc hoang xưa nhất thế giới, 13.000 năm trước, được một nhóm khảo cổ Mỹ-Trung Hoa tìm thấy trong hang Diaotonghuan phía nam sông Dương Tử (bắc tỉnh Giang Tây). Cư dân sống trong vùng này đã biết thử nghiệm các giống lúa và cách trồng trong thời gian dài tiếp theo đó. Điều này đă được nhóm khảo cổ chứng minh qua sự tăng độ lớn phytolith của lúa (phần thực vật hoá thạch, tồn tại nhờ giàu chất silica) lắng trong những lớp trầm tích theo thời gian. Tin này đã được đăng trên tạp chí khoa học Science, năm 1998. Các nhà khoa học nghiên cứu về phytoliths - thạch thể lúa - này đă chứng minh rằng từ 9000 năm trước dân cổ ở vùng đó đã ăn nhiều gạo của lúa trồng hơn lúa hoang. Nhóm cư dân bản địa này cũng bắt đầu làm đồ gốm thô xốp bằng đất trộn trấu. Kinh nghiệm về trồng lúa tích tụ tại đấy trong mấy ngàn năm đă đưa đến nghề trồng lúa trong toàn vùng nam Dương Tử. Di tích xưa thứ hai, 9000 năm trước, là Pengtou, gần hồ Động Đình phía nam sông Dương Tử. Hơn bốn mươi chỗ có di tích lúa cổ hàng ngàn năm đă được tìm thấy ở vùng nam Trường Giang. Gần cửa biển nam Trường Giang, di tích Văn hoá Hemudu (Hà Mỗ Độ) cho thấy văn minh lúa nước trong vùng lên đến trình độ rất cao vào 7.000 năm trước, sớm hơn cả di tích làng trồng kê Banpo (Bán Pha) xưa nhất của dân tộc Hán phương Bắc.  Hemudu là một làng vài trăm người sống trên nhà sàn trong vùng đầm lầy ở cửa sông Tiền Đường. Dân Hemudu đă trồng lúa, ăn cơm, để lại lớp rơm và trấu dày 25-50 cm, có nơi dày đến cả mét, trên diện tích 400 mét vuông. Có thể đó là lớp rác để lại trên sân đập lúa. Di chỉ thực vật củ ấu, củ năng, táo và di cốt động vật hoang hươu, trâu, tê giác, cọp, voi, cá sấu... cho thấy khí hậu vùng Nam sông Dương Tử bấy giờ thuộc loại nhiệt đới, hoàn toàn thích hợp với việc canh tác lúa nước. Nền văn hoá Hemudu xưa bảy ngàn năm có nhiều điểm gần gũi với văn hoá Phùng Nguyên-Đông Sơn vốn là những văn hoá trẻ hơn nhiều sau hơn 3000 năm. Cư dân vùng nam Trường Giang lúc ấy có lẽ gần với cư dân Bắc Việt về mặt chủng tộc và văn hoá hơn cư dân bắc Trung Hoa. Khuôn mặt đắp từ sọ người Hemudu trưng bày ở Viện Bảo tàng Hemudu cho thấy họ giống người thuộc chủng Nam Mongoloid, tức là chủng của người Việt Nam từ thời Đông Sơn về sau. Sau văn hoá Hemudu, hàng loạt văn hoá lúa nước khác đã sinh ra dọc lưu vực sông Trường Giang khoảng 4000 năm trước như Liangzhu, Majiabin, Quinshanyang, Qujialing, Daxi, Songze, Dadunze. Điều kiện đồng bằng sông Hồng là nơi rất thích hợp cho lúa hoang và sau này là lúa trồng. Thật là kỳ lạ, người Việt trong cộng đồng chủng Nam Mongoloid là tổ tiên của văn minh lúa nước.” (Văn Minh Lúa Nước - Wikipedia)

Con người đã sống ở lưu vực sông Hồng từ thời Đồ Đá Củ cách đây khoảng 25 ngàn năm. Canh tác lúa nước được phát triển vào thời Đồ Đá Mới trong nền văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn, cách đây khoảng 9 ngàn năm.

Đồng bằng phù sa Sông Hồng bắt đầu được thành lập vào thời Holocene cách đây khoảng 10 ngàn năm, lúc mực nước Biển Đông cao hơn hiện nay 2-3 m.

Cách đây khoảng 9 ngàn năm, nước biển bắt đầu hạ thấp dần, đồng bằng được nới rộng thêm ra hướng biển. Thêm vào đó, đồng bằng được phù sa sông Hồng bồi đắp dày thêm, và lấn dài ra biển với vận tốc khoảng 22 m/năm (9).

Trong 9000 năm qua, Biển Đông trải qua 4 lần nước dâng (bờ biển lùi vào đất liền) và 4 lần nước biển hạ thấp (đồng bằng tiến ra biển) với các đỉnh biển dâng cao cách đây 9000, 6000, 4500, 3500, và 4 đỉnh thấp xảy ra khoảng 7000, 5000, 4000 và 2500 năm trước đây (4). Ngày nay nước biển lại dâng cao.

Lưọng phù sa trung bình sông Hồng khoảng 80 triệu m3/năm, tương đương với 130 triệu tấn. Năm 1971, năm lũ lớn của thế kỷ, có lượng phù sa tới 202 triệu tấn. Trong mùa lũ, mỗi mét khối nước sông Hồng chứa khoảng 1,2-1,5 kg phù sa (9), gấp 3 lần hàm lượng phù sa trung bình của sông Hậu trong mùa lụt ở Châu Đốc (500g/m3).  Tại Đồng bằng Cửu Long (ĐBCL), hàng năm đồng bằng dày thêm từ 0,1 đến 0,15 mm phù sa. Nếu có cùng độ lắng tụ theo tỉ lệ số lượng phù sa (i.e. 0,3 – 0,45 mm/năm), ĐBSH cách đây 3000 năm phải thấp hơn hiện nay từ 0,9 m đến 1,35 m. Bài tính này có cơ sở chính xác vì hạt lúa cổ Thành Dền tìm thấy bị chôn vùi ở độ sâu 1 -1,2 m. Cũng vậy, cách đây 3000 năm, có lẽ bờ biển cách biển hiện nay khoảng từ 20 km đến 60 km.

Cảnh trí mô tả trên các trống đồng, như Trống đồng Đông Sơn,  Ngọc Lũ cho thấy cảnh quang thời vua Hùng, cách đây trên 2 ngàn năm, là cảnh chèo ghe trong đầm lầy. Muôn thú gồm động vật hiện nay như bò, ngựa, chó, cọp, hưu, chim, v.v. Ngoài ra, còn một số thú lạ như con vật đầu chim có 4 chân, có đuôi dài của loài khỉ; hoặc con vật 4 chân, có bờm, đuôi cuộn, miệng há rộng, nay đã tuyệt chủng (9). Hình ảnh này chứng tỏ vào thời 3000 năm trước, ĐBSH còn là một vùng đất thấp, nê địa và  hoang dã, bị ngập lụt hàng năm 4-5 tháng trong mùa mưa lũ, tương tự như vùng Đồng Tháp Mười của ĐBCL ở các thập niên trước. Theo sự thành hình tự nhiên của sông ngòi, phù sa lắng đọng nhiều ở bờ sông, tạo thành một đê thiên nhiên cao hơn nội đồng 2-3 m, càng xa sông cuộc đất thấp dần, và tận cùng là vùng đầm lầy.

Chỉ sau này, cách đây 2300 năm, hệ thống đê điều ở Phong Khê (Sông Đà bây giờ) mới được thiết lập (Theo Giao Châu Ký), tiếp theo là đê ở  tây bắc Long Biên (tức Hà Nội)  (theo Hán Thư). Hệ thống đê được phát triển thêm dưới thời Lý Bôn (khoảng 521) quan trọng nhất là công trình của Cao Biền (giữa thế kỷ thứ 9) cho hệ thống đê quanh thành Đại La, và dưới thời vua Lý Nhân Tông (1072-1127) với công trình Đê Cơ Xá (1108) và hoàn chỉnh với Đê Quai Vạt dưới đời Trần (9). Nhờ hệ thống đê hửu hiệu này, lũ lụt được kiểm soát, nhờ vậy lúa canh tác được 2-3 vụ/năm.

Tóm lại, ĐBSH cách đây 3000 năm còn là vùng đầm lầy, nê địa. Chỉ những vùng đất trên đê thiên nhiên ven sông là khá cao, tuy có bị ngập lụt trong mùa lũ nhưng thời gian ngập lụt ngắn hơn trong nội đồng, nên mới có cư dân sinh sống. Có lẻ, Thành Dền vào thời cổ nằm trên loại đất khá cao này. Lúa cổ vì vậy phải thích nghi trong môi trường này.Trích: Thử Tìm Lại Chân Dung Giống Lúa Cổ Thành Dền - Trần Đăng Hồng, Ph.D.)

Chân thành cảm ơn tất cả các bạn đọc và các học giả.


[1] Trích: Khảo Luận Về Lục Thập Hoa Giáp, đăng 19/09/2009 trên www.quangkhoi.net

3 comments:

  1. Rất tuyệt vời. Cảm ơn tác giả Hà Hưng Quốc.

    ReplyDelete
    Replies
    1. mong tác giả dẫn dắt nhiều hơn nữa về tử vi lý số

      Delete
    2. Cảm ơn... nhiều .Lần đầu tiên em vỡ lẽ thoát khỏi bế tắc u mê. Xin tác giả khai sáng tiếp cho những người mới bắt đầu như em và cả những người bạc đầu không hiểu âm dương..

      Delete