Bí Mật Của Đất Trời
Gói Gọn Trong Hai Vế
Cốt Lõi Của Dịch
Học Nằm Trong 67 Lời
trở về: Việt Dịch - bài 15
5. NHỮNG KHÁM PHÁ VỀ THUYẾT NGŨ HÀNH
Trong
quá trình triển khai vừa qua --từ Tiên Thiên Bát Quái cho đến Hậu Thiên Bát
Quái, đến Việt Dịch Đồ, đến phân bố Việt Dịch Đồ trên 9 cung, đến Lạc Thư, đến
phân bố Việt Dịch Đồ trên 12 cung, và cuối cùng là những quy luật phối hợp giữa
âm dương, ngũ hành, độ số, thiên can và địa chi-- chúng ta dễ dàng nhận ra tính
hệ thống của toàn bộ lý giải cũng như dễ dàng nhận ra sự hợp lý của mỗi phiến
lý giải. Cũng không khó cho chúng ta nhận
ra cốt lõi của toàn bộ dịch học gói gọn trong hai vế với sáu mươi bảy lời. Và, có một điều rất thú vị là trong suốt quá
trình triển khai đó chúng ta cũng không khó để nhận ra là đã không tìm thấy bằng
chứng hổ trợ cho hệ thống lý thuyết ngũ hành phổ cập rất
quen thuộc với chúng ta. Nói như thế cũng chưa đúng lắm. Có lẽ sẽ chính xác hơn nếu nói rằng trong suốt
quá trình triển khai vừa qua chúng ta đã tìm thấy bằng chứng để phủ nhận lý thuyết
ngũ hành phổ cập mà chúng ta quen thuộc.
Hệ thống lý thuyết ngũ hành phổ cập được xây dựng
trên cơ sở: (1) ngũ hành là 5 loại vật chất gồm kim loại, gỗ, nước, lửa, đất;
(2) Năm hành này tuân thủ quy luật tương sinh gồm có Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa,
Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy; (3) Đồng thời năm hành này cũng tuân
thủ quy luật tương khắc gồm có Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim
khắc Mộc, Mộc khắc Thổ. Tất cả những ứng
dụng của lý thuyết ngũ hành đều xây trên nền móng “5 loại vật chất + 2 quy luật
sinh khắc” này. Rồi từ nền móng đó phát
sinh ra những quy luật khác như là hình, xung, hóa, hợp. . . cùng với những lý
luận và ứng dụng kèm theo.
Có thể nói là lý thuyết ngũ hành rất phổ cập và ứng
dụng của thuyết ngũ hành thâm nhập hầu hết mọi ngõ ngách của những xã hội Á Châu. Điều này chứng tỏ nó có sức hút rất lớn đối với
quần chúng. Tuy là vậy, nhưng với suy
nghĩ thực sự nghiêm túc, chúng ta không thể không nhìn thấy sự phi lý rõ rệt của
lý thuyết ngũ hành phổ cập và sự tùy tiện trong ứng dụng đến mức độ khó chấp nhận. Với tác giả,
dầu cho kho lý thuyết và ứng dụng của lý thuyết ngũ hành phổ cập có nhiều
tới đâu, có biến hóa tới đâu, có diễm ảo tới đâu, có ly kỳ tới đâu, có tinh vi
tới đâu đi nữa thì cũng vẫn không che dấu được sự sai lầm từ nền móng. Đó là, thế giới này không tạo dựng bởi năm loại
vật chất Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Thế
giới này không vận hành theo quy luật Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ,
Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy. Thế giới
này cũng không vận hành theo quy luật Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim,
Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ. Kho tàng lý
thuyết của ngũ hành phổ cập chỉ là một toà lâu đài đẹp xây bằng hơi nước. Ứng dụng lý thuyết ngũ hành phổ cập vào các
môn tiên tri, tiên đoán thì xác suất đúng sai của chúng có chắc gì hơn được xác
suất sấp ngửa của một đồng tiền rớt trên mặt bàn. Xin lưu ý cho là tác giả không phủ nhận lý
thuyết ngũ hành mà chỉ phủ nhận lý thuyết ngũ hành phổ cập đặt trên nền móng “5
vật chất + 2 quy luật sinh khắc.”
Như vừa nói, suốt trong quá trình triển khai mật nghĩa của
sáu mươi bảy lời trong hai vế chúng ta đã không tìm thấy một bằng chứng nào hỗ
trợ cho thuyết ngũ hành phổ cập. Ngược lại,
trong tiến trình đưa đến Việt Dịch Đồ, vế thứ hai trong
67 lời mật ngữ là “Thiên Nhất sanh Thủy, Địa Lục thành chi, Địa Nhị sanh Hỏa,
Thiên Thất thành chi, Thiên Tam sanh Mộc, Địa Bát thành chi, Địa Tứ sanh Kim,
Thiên Cửu thành chi, Thiên Ngũ sanh Thổ, Địa Thập thành chi” đã được giải mã
tường tận là Càn sinh Thuỷ rồi sinh Mộc, Khôn sinh
Hỏa rồi sinh Kim, sau hết là sinh Thổ. Ý nghĩa của cụm chữ màu xanh này là: xác định
vị trí 5 thiên thể và chiều xoay cơ bản, mà Càn-Khôn là trục, trong tương quan
giữa mặt đất và bầu trời. Xem hình H21.
Cũng từ cụm chữ màu xanh này mà quy luật vận hành cơ bản của ngũ hành
được xác định là từ Thuỷ tới Mộc tới Hoả tới Kim rồi tới Thổ ở trung tâm. Hay trình bày một cách khác là Thủy -> Mộc -> Hỏa -> Kim -> Thổ ở trung tâm.
Rồi với cấu trúc 8 quái Hậu
Thiên phối với 8 số của Hà Đồ cộng với sự vận hành Tiên Thiên và Hậu Thiên mà
Việt Dịch Đồ xuất hiện. Với Việt Dịch Đồ, hình H27, nó không khó cho chúng ta nhận ra là toàn
bộ lý thuyết ngũ hành đã nằm ẩn trong đó.
Một trong những thể hiện quan trọng của Việt Dịch Đồ là hai dòng hành khí
vận hành ngược chiều nhau, dòng hành khí nằm ở vòng bên ngoài vận hành theo chiều
kim đồng hồ còn dòng hành khí nằm ở vòng bên trong vận hành ngược chiều kim đồng
hồ. Chú ý ở điểm là cả hai chiều vận hành
đều là thuận hành. Hay nói cách khác
theo ngôn ngữ ngũ hành là chiều kim đồng hồ lẫn chiều ngược kim đồng hồ đều là
chiều sinh. Như vậy, với 5 hành ở 5 phương
vị và với hai dòng hành khí vận hành ngược chiều nhau, lý thuyết ngũ hành nguyên
thủy đã tự thể hiện đầy đủ mà không cần sự trợ giúp nào từ bên ngoài. Gọi lý thuyết ngũ hành nằm ẩn trong Việt Dịch
Đồ này là Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy.
Để giúp cho thấy rõ hơn, chúng ta có thể đơn giản hóa Việt Dịch Đồ và
minh họa thành một mô hình riêng cho lý thuyết ngũ hành, trong đó hành Thổ nằm ở
trung tâm còn 4 hành Thủy, Mộc, Hỏa, Kim nằm trên một vòng tròn với quy luật
sinh vận hành hai chiều ngược nhau. Chính
đặc tính sinh hai chiều này nên nó được gọi là tương sinh. Hay nói cách khác, hai hành nằm cạnh nhau thì
tương sinh. Và, suy ra, hai hành đối lập
nhau thì tương khắc. Lý thuyết ngũ hành
nguyên thủy có thể tóm gọn và so sánh với lý thuyết ngũ hành phổ cập như trong
hình H45.
Như chúng
ta đã thấy, tuyệt đối không có một chút chứng cớ nào cho sự hiện hữu của lý thyết
ngũ hành phổ cập. Không thấy ngũ hành là
5 loại vật chất cũng không thấy sinh khắc theo hai quy luật của thuyết ngũ hành
phổ cập.
Nếu Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là 5 loại vật chất
giống như lý thuyết ngũ hành phổ cập luôn nói tới thì tại sao không gọi chúng
là ngũ chất mà lại gọi là ngũ hành? Còn
căn cứ theo từ điển Thiều Chửu thì ngũ hành là “cái để dùng, của dùng như ngày xưa gọi vàng, gỗ, đất, lửa, nước là ngũ
hành金木水火土為五行 ý nói năm thứ ấy là cái người ta cần dùng hằng ngày vậy.” Nếu đúng là như thế thì từ chỗ 5 vật dụng tối
yếu cho đời sống của con người đi tới chỗ 5 vật chất tương sinh tương khắc lẫn
nhau cấu tạo nên mọi thứ mọi cái như lý thuyết ngũ hành phổ cập luôn nói tới
thì khoảng cách quả thật là không gần.
Cũng căn cứ theo từ điển Thiều Chửu thì chữ hành
行 trong tiếng Hán có nghĩa là đi, là bước đi, là trải qua, là sắp tới, là biến
đổi không ngừng. Chữ hành trong những ý
nghĩa “đi, bước chân đi” hoàn toàn khế hợp với lý giải ngũ hành là để chỉ
phương hướng, để định vị, để làm sao đi tới nơi về tới chốn. Chữ hành trong ý nghĩa “trải qua, sắp tới, biến
đổi không ngừng” lại càng đặc biệt vì không những hoàn toàn khế hợp với lý giải
ngũ hành là để chỉ phương hướng, trong đó bao gồm cả chiều xoay thuận nghịch đối
với một định vị , mà còn hoàn toàn khế hợp với hành trạng của Tứ Tượng. Chính điểm này giúp chúng ta mở ra một cánh cửa
khác để nghiệm xét vấn đề Ngũ Hành: đó là sự khế hợp và không khế hợp giữa Tứ Tượng,
Bát Quái với Ngũ Hành.
Nếu lý giải thuyết ngũ hành trên căn bản Kim, Mộc,
Thủy, Hỏa, Thổ là để chỉ 5 loại vật chất với 2 quy luật sinh khắc theo đúng căn bản của lý thuyết ngũ
hành phổ cập thì làm sao năm hành có thể phối hợp được với bốn tượng và tám
quái? Thêm vào đó, như đã nói, bằng vào
kiến thức của nhân loại ngày hôm nay, rõ ràng thế giới này không cấu thành bởi
5 loại vật chất cũng không vận hành bởi hai quy luật sinh khắc như lý thuyết ngũ
hành phổ cập luôn vận dụng.
Ngược lại nếu lý giải thuyết ngũ hành trên căn bản
thiên văn Thủy, Mộc, Hỏa, Kim là để chỉ 4 hướng Bắc, Đông, Nam, Tây và trung
tâm là hành Thổ thì năm hành kết hợp với bốn tượng và tám quái lại là một điều
hoàn toàn khả dĩ và hoàn toàn hợp lý.
Trong trường hợp này Âm Dương, Ngũ Hành, Hà Đồ, Bát Quái, Thiên Can, Địa
Chi, Cửu Cung, Thập Nhị Cung không
những khế hợp về mặt cấu trúc mà còn khế hợp về mặt thể hiện thế giới hiện tượng
một cách dung thông gọi là Dịch Lý. Đây
là một sự kết hợp của hai vế chứa đựng trong 67 lời. Sự kết hợp làm cho lý-sự của âm dương, ngũ hành,
bát quái, độ số, thiên can, địa chi, phương hướng, mùa tiết . . . có thể “hiển bày” vạn tượng trong một đồ hình
đơn giản, Việt Dịch Đồ. Một sự kết hợp
trọn vẹn và kỳ ảo!
Tìm trong kho tàng đạo học chúng ta cũng có
không ít bằng chứng nói về ngũ hành.
Trong một bài giảng về Âm Dương Ngũ Hành Đức Đông Phương Lão Tổ đã giảng:
“Thánh
Nhân ngày xưa nhìn thấy lẽ siêu xuất của vũ trụ vạn vật, vạch ra Bát Quái, tham
cứu Đồ Thơ, tác thành Dịch Đạo, lưu lại cho đời tìm hiểu mối manh huyền bí của
vũ trụ vạn vật. Tuy hình tướng lý thuyết bên ngoài, nhưng bên trong chứa đựng
luật tắc ảo diệu biến hóa của Thái Cực Âm Dương. Người tu luyện nương vào đó để
nhìn thấy sự luân động của bộ máy tối linh, nhận thấy được cái gì là chân thật,
bất biến để gìn giữ, cái gì là giả tạm, sanh diệt diệt sanh trong thời gian nào
đó để không bám víu.
Thiên
nhất sanh thủy, Địa lục thành chi; Địa nhị sanh hỏa, Thiên thất thành chi;
Thiên tam sanh Mộc, Địa bát thành chi; Địa tứ sanh kim, Thiên ngũ thành chi;
Thiên ngũ sanh thổ, Địa thập thành chi. Một sanh một thành một âm một dương, một
động một tịnh.
Bởi có
danh có chất nên gọi là Ngũ-Hành Tiên-Thiên. Bởi có hình có tướng nên gọi là
Ngũ-Hành Hậu-Thiên. Trong trời đất vạn vật không có vật chi hóa sanh biến dưỡng
mà không có Tiên Thiên, Hậu Thiên Ngũ Hành áp dụng vào nhân thân. Người tu luyện
phải thấu suốt những tác năng sinh động hữu hình trong chính bản thân để hòa hợp
tu chứng.
Ngươn
Thần, ngươn Tinh, ngươn Tính, ngươn Tình, ngươn Khí là Ngũ Hành Vô Hình. Thức
Thần, trược Tinh, quỷ Phách, du Hồn, vọng Ý là Ngũ Hành Hữu Chất. Bính Đinh,
Nhâm Quý, Canh Tân, Giáp Ất, Mồ Kỷ là Ngũ Hành Phương Vị. Đó là hữu danh, hữu
chất, vô hình là nguồn gốc của Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân là tượng của Ngũ Hành ứng với phương vị để truyền sản tác thông, nguyên
căn tổ khiếu của ngũ ngươn, ngũ tạng, lục phủ là hình trong hình, chất trong chất.
Do đó có hỉ, nộ, ai, lạc, dục.
Biết được
sự liên hệ mật thiết giữa máy Tạo tuần hoàn, nhân thân cùng vũ trụ thì tu luyện
là cần thiết cho con người. Khi đã tạo thành, con người sống trong hai khí Tiên
Thiên, Hậu Thiên; tinh thần hòa lẫn vật chất; hữu hình vật chất thì biến hiện,
vô hình thì tiềm ẩn, thế nên con người chỉ thấy giá trị của vật chất mà không
thấy giá trị của tinh thần, vì vật chất hữu hình, quyến rũ, lôi cuốn, con người
càng ngày càng bám víu; trong khi Chơn
Tâm linh tánh càng ngày càng bị phủ mờ. Hỉ, nộ, ai, lạc, dục theo ngũ quan nhập
vào tàn phá Ngũ Tạng Lục Phủ, làm thân phải bị thương tổn, khuynh khuyết, hoại
tàn.
Muốn trị
được chứng nội thương ấy, người tu luyện cần phải chuyên chú trong việc luyện kỷ.
Dương là đầu mối hóa sanh, tác thành vạn vật. Một Âm không sanh, một Dương
không trưởng; Âm thạnh, Dương suy ắt bại hoại. Tạo thế quân bình cho trong định
ngoài an là đời sống tự do, tự tại. Vượt ngoài lý Âm Dương là phản bổn hoàn
nguyên, vĩnh cửu trường tồn. Tai nghe tiếng trần mà chẳng phân biệt; mắt nhìn
thấy sắc trần mà chẳng phân biệt; mũi ngửi mùi trần mà chẳng phân biệt; lưỡi nếm
vị trần mà chẳng phân biệt. Chính vì sự phân biệt mà có ưa ghét, thân thù, khao
khát, ước vọng để kết thành của nghiệp luân hồi. Vui, giận, buồn, vui, thương,
cảm khi chưa phát gọi là trung. Khi phát
ra đúng tiết điệu hòa hài cảm ứng với nội tâm, ngoài cảm gọi là hòa. Trung Hòa
là yếu tố đạt đến chỗ trong định ngoài an, để sống một cuộc sống siêu thoát; mà
sống cuộc sống siêu thoát thì Tiên Phật cũng thế thôi.”[1]
Nhưng qua đoạn giáo lý trên chúng ta thấy được ngũ
hành trên nền tảng của đạo học cũng không có một chút dấu vết nào để có thể nói
ngũ hành là 5 loại vật chất. Và không thấy dấu vết nào của hai quy luật tương
sinh và tương khắc chi phối hay vận hành thế giới hiện tượng lẫn thế giới siêu
hình như lý thuyết ngũ hành phổ cập thường nói tới.
No comments:
Post a Comment