Friday, October 29, 2010

Việt Dịch - Hà Hưng Quốc (#17)

Bí Mật Của Đất Trời Gói Gọn Trong Hai Vế
Cốt Lõi Của Dịch Học Nằm Trong 67 Lời

trở về: Việt Dịch - bài 16
6. NGHI VẤN LẠC THƯ
Trong tiến trình giải bày, chúng ta đã có nói sơ qua về Lạc Thư.  Sự khác biệt giữa Hà Đồ và Lạc Thư không nhiều, chỉ đơn giản là sự hoán vị giữa cặp số 4-9 với cặp số 2-7 tức là sự hoán vị giữa hành Kim với hành Hỏa.  Nhưng vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao lại phải hoán đổi vị trí Kim với Hỏa?  Dựa trên căn bản nào để hoán vị?  Có bằng chứng nào trực tiếp hỗ trợ cho căn bản của sự hoán vị đó?  Nhìn lại nguồn gốc xuất phát của các độ số và vị trí của các vì sao, chẳng phải là “cặp số 4-9 + sao Kim + hướng Tây” không thể tách rời nhau và “cặp số 2-7 + sao Hỏa + hướng Nam” không thể tách rời nhau hay sao?  Không thể tách rời nhau bởi vì sự hiện hữu của chúng chỉ đúng trong điều kiện chúng đi chung với nhau mà thôi.  Chẳng phải là sự tách rời một phần tử nào đó [sao, hướng, độ số] ra khỏi tập hợp tức khắc sẽ phá hủy ngay cái điều kiện mà mỗi phần tử của tập hợp đã tựa trên căn bản đó để mà tiếp tục đúng [tồn tại] hay sao?  Chẳng phải là sự hoán vị đó đã xâm phạm ngay cả nguyên lý đã giúp thiết lập cấu trúc của Bát Quái, Hà Đồ và Việt Dịch Đồ hay sao?  Chẳng phải là sự hoán vị đó sẽ làm hỗn loạn và lệch lạc tính như nhất, xuyên suốt và hợp lý của 2 âm dương, 10 độ số, 8 quái, 5 hành, 10 thiên can và 12 địa chi kết hợp thành một hệ thống hoàn hảo hay sao?     
Nhưng tại sao lại phải có sự hiện hữu của Lạc Thư?  Không phải là đồ hình hậu thiên Bát Quái phối Hà Đồ đã có khả năng giải thích tất cả mọi hiện tượng sinh hoá trong đó rồi hay sao?   
Phải chăng là đã có sự lầm lẫn trong tên gọi khi người ta tách Hà Đồ ra khỏi Bát Quái để đem phối vào cửu cung rồi gọi sản phẩm mới đó là Lạc Thư,  hay nói một cách khác Lạc Thư chính là Hà Đồ phối Cửu Cung?  Hoặc là về sau nữa người ta đã gán ghép một cách khiên cưỡng lý thuyết ngũ hành phổ cập vào Hà Đồ Cửu Cung nhưng vì chỉ có thể ghép quy luật sinh vào Hà Đồ mà không giải quyết được quy luật khắc cho nên mới có chuyện hoán vị hai hành Kim Hoả của Hà Đồ để tạo ra Lạc Thư?
Hay là, hai chữ Lạc Thư nguyên thỉ rất có thể trỏ vào một sản phẩm hoàn toàn khác chứ không phải chỉ là một đồ hình biến dạng của Hà Đồ. Về sau, với sự vắng mặt hoàn toàn của sản phẩm đó trong khi tên gọi của nó tiếp tục sống mãi nên mới đưa tới chuyện nhập nhằng lầm lẫn?   
Tác giả thực sự hoài nghi về nguồn gốc và giá trị của Lạc Thư.



7.  VIỆT DỊCH ỨNG DỤNG
Việt Dịch không có lập sẵn quẻ cũng không có lập sẵn lời như Chu Dịch.  Việt Dịch chỉ dựa vào 8 quái, tượng trưng của 8 nguyên tính đại diện cho thể-dạng-tính-trạng-hành của thế giới hiện tượng nằm trong phạm trù có thể hiểu được và lý giải được.  Hay nói cho đúng hơn, Việt Dịch chỉ gom gọn trong hai đồ hình.  Một cái là Tiên Thiên Bát Quái Đồ và một cái là Việt Dịch Đồ.
Vì Việt Dịch không lập sẵn quẻ cho nên không bị đóng khung trong một số quẻ nhất định như là Chu Dịch.  Mỗi quẻ của Việt Dịch có thể lên đến 8 quái nhờ đó mà mỗi quẻ có thể chứa đựng nhiều thông tin hơn.  Theo đó, tuy không lời và nhiều biến hóa mà ý nghĩa của quẻ lại được sáng tỏ hơn.  Tùy sự ứng hiện của các quái mà cục diện được thành lập.  Tùy sự việc mà lời được vận dụng.  Tùy cục diện và lời mà lý nghĩa của quẻ được triển khai.     
Nói cho có vẻ khoa học hơn thì Tiên Thiên Bát Quái Đồ và Việt Dịch Đồ là hai mô hình có thể kích hoạt để tìm đáp án mà 8 quái của mỗi mô hình chính là 8 biến số dẫn đến đáp án.  Tùy thuộc vào lĩnh vực hoặc vấn đề truy cứu mà mô hình thích hợp được sử dụng và mỗi biến số được xác định (defined) bằng lời.  Tùy vào điều kiện có hưởng ứng hay không của mỗi biến số mà cục diện được thiết lập.  Tùy vào lời và cấu trúc đã thiết lập mà lý nghĩa của tổng thể được triển khai và dẫn đến đáp án.   
Lấy quẻ hay gieo quẻ bằng phương pháp nào không phải là chuyện quan trọng.  Theo qui ước nào cũng được miễn là lấy một trong tám quái để xác định đâu là gốc và chọn một chiều để xác định đâu là ngọn rồi xếp tất cả các “hiện quái” lên đồ hình Tiên Thiên Bát Quái Đồ hoặc Việt Dịch Đồ.  Tất cả các hiện quái kết hợp với mũi tên chỉ gốc ngọn làm nên cục diện [cấu trúc] của một quẻ.   

Giả dụ Việt Dịch Đồ được vận dụng để hỏi về tình hình quân sự giữa hai quốc gia. Ngưòi gieo quẻ chọn qui ước hiện quái đầu tiên sẽ là gốc và từ gốc đi tới ngọn theo chiều ngược kim đồng hồ.  Rồi một quẻ được gieo ra, thứ tự trước sau như sau: 0, Ly, 0, 0, 0, Chấn, 0, 0 [0 = quái không hiện].  Đem tất cả các quái hiện và không hiện đặt vào vị trí của nó trên Hậu Thiên Bát Quái trong Việt Dịch Đồ.  Ly là hiện quái đầu tiên nên nó là gốc, theo qui ước do người gieo quẻ đã chọn.  Theo chiều ngược kim đồng hồ Chấn sẽ là ngọn, cũng theo qui ước do người gieo quẻ đã chọn.  Cục diện của quẻ sẽ giống như hình H46A.  Tập hợp Q, hay quẻ Q, chính là “tùy sự ứng hiện của các quái mà cục diện được thành lập” và cũng chính là “tùy vào điều kiện có hưởng ứng hay không của mỗi biến số mà cục diện được thiết lập.”    



Vấn đề đang được truy cứu thuộc lĩnh vực quân sự cho nên một số từ vựng quân sthích hợp sẽ được chọn lọc để gắn vào mỗi quái, như trong hình H46B.  Đây chính là “tùy sự việc mà lời được vận dụng” hay “tùy thuộc vào lĩnh vực hoặc vấn đề truy cứu mà mỗi biến số được xác định bằng lời.”  Và như đã từng trình bày, tất cả từ vựng được chọn lọc để gắn vào mỗi quái đều phải “truy cập tới,” phải “quy về được,” phải “liên kết với” yếu tính tối sơ của quái đó.    


Sau khi đã có cục diện và lời, như trong hình 46B, thì việc triển khai nghĩa lý của quẻ không là việc khó.  Với giả dụ trên, đáp án sẽ được mô tả đại khái như sau:

Q: {(vũ khí, hỏa lực, chiến tranh) + (chấn động, nổ, bùng nổ)}.   Hay trình bày một cách khác là Quẻ Q: {chiến tranh [sẽ] bùng nổ}.

Thông tin [văn bản] chứa đựng trong đáp án của quẻ Q có nghĩa lý như thế nào, sâu cạn tới đâu thì tùy thuộc vào suy nghĩ của người đặt câu hỏi và cách đặt câu hỏi.  Như là một qui luật tổng quát, câu hỏi càng hẹp thì đáp án càng dễ tìm.    

Khác với Chu Dịch, lối thiếp lập quẻ của Việt Dịch sẽ không cho ra trường hợp trùng quái [hai quái giống nhau].  Và với lối cho đáp án của Việt Dịch sẽ không có lời giải thích cho từng hào của quẻ.  
Nếu là ứng dụng trong bói toán thì vấn đề “có linh hay không” không phụ thuộc vào môn bói toán, cũng không phụ thuộc vào qui ước của môn bói toán đó, cũng không phụ thuộc vào phương pháp thiết lập quẻ mà phụ thuộc vào sự tương thông tâm linh của người xin quẻ với cõi giới vô hình.  Bói toán chỉ là vận dụng một qui ước truyền thông giữa con người với chúng sinh của cõi giới vô hình để “nhờ vả.”  Họ, chúng sinh của cõi vô hình, có đáp ứng hay không và cho đáp án đúng hay sai thì không ai biết được.   Việt Dịch chỉ một trong số những phương tiện.   
Nếu là ứng dụng vào tiên đoán hoặc suy nghiệm có tính cách khoa học hay triết học thì Tiên Thiên bát Quái Đồ và Việt Dịch Đồ có nhiều triển vọng cho những khám phá lý thú.  
Triển khai ứng dụng của Việt Dịch cần rất nhiều thời gian để nghiên cứu.  Nó không phải là chủ đề của bài viết này vì vậy chúng ta nên dừng lại ở đây.



No comments:

Post a Comment