GIẢI MÃ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐỂ PHỤC DỰNG SẢN PHẨM VĂN HÓA PHI VẬT THỂ: MỘT CON ĐƯỜNG TÁI HIỆN DIỆN MẠO VÀ CỘI NGUỒN ĐÍCH THỰC CỦA NỀN VĂN HÓA VIỆT.
“Điều mà mỗi người và mọi người có thể làm được
là đừng vội phủ nhận những chấm nhỏ đó và cũng đừng vội phủ nhận phương pháp giải
mã di sản văn hóa phi vật thể để phục dựng sản phẩm văn hóa phi vật thể trong nỗ
lực tái hiện lại bức tranh diện mạo và cội nguồn đích thực của nền văn hóa Việt. Dưới điều kiện khắc nghiệt của địa dư và lịch
sử làm cho những chứng tích vật thể mong manh khó có thể tồn tại, con đường phục
dựng sản phẩm văn hóa phi vật thể từ di sản văn hóa phi vật thể có lẽ là con đường
không thiếu khôn ngoan. Mỗi công trình
có thể chỉ là một con kiến tí ti trong con mắt của những khoa học gia chính thống
và dễ dàng bị cho “chìm xuồng” nhưng một khi số lượng kiến đã có thể kết nối
nhau thành một bè kiến chuyên chở nổi sự thật về cội nguồn văn hóa Việt thì lúc
đó kiến sẽ không còn là kiến. “
trở lại: Giải Mã Di Sản Phi Vật Thể . . . Bài 2
Tiên
Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ, Hà Đồ, Ngũ Hành Đồ Của Việt Dịch: Phục Dựng Từ Khẩu Quyết
Lưu Truyền Trong Dân Gian
Một trong những công trình tâm đắc
của Hà Hưng Quốc là Việt Dịch. Một phần lớn
nội dung của cuốn sách này giải trình từng bước quá trình giải mã hai câu khẩu
quyết tổng cộng 67 lời trong 2 vế để phục dựng lại 4 đồ hình quan trọng là Tiên
Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ, Hà Đồ, Ngũ Hành Đồ cùng với hầu hết những đồ hình căn bản
khác trong lý học đông phương. Ngoại trừ
Tiên Thiên Đồ, 3 đồ hình còn lại đều nằm chung với nhau trong một tổng thể mà
HHQ đặt tên là Việt Dịch Đồ. Còn tất cả
những đồ hình căn bản khác không nhắc tên ở đây đều là những đồ hình phái sinh
từ Việt Dịch Đồ. Một phần khác trong nội
dung của Việt Dịch nhằm chứng minh giá trị khoa học và thực dụng của hai Đồ Dịch
quan trọng là Tiên Thiên Đồ và Việt Dịch Đồ (đúng ra phải gọi là Tiên Thiên Việt
Dịch Đồ và Hậu Thiên Việt Dịch Đồ). Phần
còn lại giải thích tính chất minh triết chứa đựng trong hai Đồ Dịch là tinh yếu
của Việt Dịch.
Vế khẩu quyết thứ
nhất được nói tới là “Vô Cực nhi Thái Cực, Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng,
Tứ Tượng sinh Bát Quái, Bát Quái sinh càn khôn vạn vật.” và vế khẩu quyết thứ
hai là “Thiên Nhất sanh Thủy, Địa Lục
thành chi, Địa Nhị sanh Hỏa, Thiên Thất thành chi, Thiên Tam sanh Mộc, Địa Bát
thành chi, Địa Tứ sanh Kim, Thiên Cửu thành chi, Thiên Ngũ sanh Thổ, Địa Thập
thành chi.” Toàn bộ Việt Dịch nói
chung, và những đồ hình nói riêng, được phục dựng từ 67 lời bí nhiệm nằm trong
hai vế này.
Tiên Thiên Đồ của
Việt Dịch hoàn toàn trùng khớp với Tiên Thiên Bát Quái mà chúng ta biết ngày
hôm nay, giống như hình H2. Điều này chứng
tỏ nó chưa bị sửa đổi dầu là bản thân nó trôi nổi ở xứ người và căn cước của nó
đã bị mất.
Việt
Dịch Đồ thì không giống với bất cứ một đồ hình từ xưa đến nay. Nó là một đồ
hình có thể gọi là Thái Đồ (a grand model) trong đó chứa đựng toàn bộ tinh túy
của Đông Phương bao gồm cả Hậu Thiên Bát Quái và Hà Đồ, bao gồm cả thuyết âm
dương và thuyết ngũ hành, bao gồm cả thiên can và địa chi, bao gồm cả thiên văn
và mùa tiết, bao gồm cả nội giới và ngoại giới, bao gồm cả . . . thế giới vi diệu
sinh hoá. Tất cả hợp nhất một cách thần
kỳ trong một tổng thể đơn giản như cho thấy trong hình H27/ 27B.
Điều
đáng chú ý ở đây là khái niệm 4 Trục trong Việt Dịch, còn gọi là 4 Nguyên Tố hoặc
là Tứ Tượng, trong phần giải trình về cấu trúc và qui luật thành lập Tiên Thiên
Đồ, được tìm thấy trong Trung Thiên Đồ của NTD (HHQ giúp hoàn chỉnh) phục dựng
từ huyền sử Lạc Long Âu Cơ. Và Hậu Thiên
Đồ, ẩn trong Việt Dịch Đồ, của Việt Dịch lại hoàn toàn trùng khớp với Hậu Thiên
Đồ của TQB (HHQ giúp hoàn chỉnh) phục dựng từ huyền thoại Nữ Oa lấy đá vá trời. Đây có phải là những trùng hợp ngẫu
nhiên? Chắc chắn là không phải!
Việt
Dịch từ đầu đến cuối hoàn toàn không có bóng dáng Kinh Dịch. Vâng, hoàn toàn không có Kinh Dịch (tức 64 quẻ).
Điều này làm ngạc nhiên nhiều người vì theo quan điểm của đa số một cuốn sách
viết về Dịch phải có Kinh Dịch. Không có
gì là ngạc nhiên. Bởi vì, VIỆT DỊCH vốn
là ĐỒ DỊCH không phải là KINH DỊCH.
ĐỒ và KINH của DỊCH có thể ví như một cuộn
phim của máy ảnh. Kéo ra hình thành 64
quẻ thì gọi là Kinh. Còn nguyên cuộn
trong vỏ bọc thì gọi là Đồ. Mỗi lần kéo ra là thành một phiên bản mà những
thông tin trên đó phản ảnh tri thức, tâm lý và chủ ý của người kéo và của một
thời đại mà người đó có mặt. Người đời
sau tôn xưng đó là Kinh. Nhưng thực ra
nó chỉ là phế phẩm quá hạn được chế tác từ một thời đại xa xưa.
Nếu ví Kinh với hàng phế phẩm thì Đồ có thể
ví với một máy chế tác đang luôn sẵn sàng để chế tác. Cổ Thánh Việt hiểu rõ lý lẽ này nên không để lại Kinh mà chỉ để lại Đồ. Huyền
thoại Nữ Oa vá trời là chìa khóa để Việt nhận lại Đồ Dịch của Việt. Huyền sử Lạc Long và Âu Cơ là chìa khóa để Việt
nhận lại Đồ Dịch của Việt. Khẩu quyết 67
lời trong hai vế là chìa khóa để Việt nhận lại Đồ Dịch của Việt. Và còn nhiều chiếc chìa khóa khác nữa vẫn còn
nằm đâu đó trong mớ di sản văn hóa phi vật thể của người Việt mà chúng ta chưa
khám phá tới.
Vì mỗi
lần kéo ra là có một phiên bản cho nên Kinh có thể và thường là có nhiều phiên bản. Đúng có, sai có, sâu có, cạn có, nguyên bản gốc
có, bị sửa đổi có. Người ta đã say mê với Kinh mà lạt lẽo với Đồ
cho nên càng ngày càng xa gốc Dịch, nhưng càng ồn ào hơn về Dịch.
Kinh là ngọn của Dịch. Đồ là gốc của Dịch. Có Đồ mới có Kinh. Có Đồ Dịch mới có Kinh Dịch. Người Tàu ôm giữ cái ngọn và trân trọng tôn
thờ Kinh Dịch. Tiền nhân Việt bảo quản cái
gốc do mình sáng tạo nên đem mã hóa Đồ Dịch và truyền thừa di sản cho con cháu
suốt mấy ngàn năm qua.
Vì Việt Dịch không có 64 quẻ nên có người bảo
Đồ không thể sánh bằng Kinh. Ai dám bảo
trong Đồ không có Kinh? Ai dám bảo Đồ
chẳng bằng Kinh? Chẳng phải tổ tiên Việt đã gọi Đồ Dịch là Trời
trong chuyện Nữ Oa lấy đá vá Trời đó sao?
Không phải tổ tiên Việt, trong truyện Nữ Oa lấy đá vá Trời, đã gởi
lại thông điệp Đồ Dịch là cội nguồn của
minh triết và phải có nó thì từ đó mới có được an bình đó sao? Đồ Dịch là một loại “vô tự thiên thư” ngàn Kinh
không thể sánh. Đồ Dịch là của thượng
căn thượng trí phàm phu không thể thấu.
Đồ Dịch xưa nhất được sử Tàu ghi nhận [năm 2361
TCN, tức năm Mậu Thân thứ 5 đời Đường Nghiêu.
Nguồn: Sách Cương Mục Tiền Biên của Kim Lý Tường; Thuật Dị Ký trong sách
Thông Chí của sử gia Trịnh Triều (1104-1162)] là Đồ Dịch chép trên lưng thần qui, viết bằng cách dùng
vật nóng cháy áp lên mai rùa, và văn bản viết bằng cách này gọi là lạc thư [không
viết hoa], của Việt Thường dâng tặng vua Nghiêu hơn 4370 năm trước. Không phải tổ tiên Việt cũng đã xác nhận “bắt
con rùa đội Trời lên” trong huyền thoại Nữ Oa lấy đá vá trời đó sao? Đó không phải là thông tin khẳng định Đồ Dịch
là của Việt đó sao?
Nguồn gốc của Kinh Dịch, tất cả các Kinh Dịch,
đều xuất phát từ Đồ Dịch của Việt Thường.
Minh triết của phương Đông gói gọn trong Đồ Dịch của Việt Thường. Văn hóa rạng ngời của
Trung Quốc nảy sinh từ Đồ Dịch của Việt Thường.
Đồ Dịch đã là của Việt thì dù cho Kinh Dịch có là của ai hay do ai trước
tác đi nữa thì Dịch vẫn là Việt Dịch. Vì
thế Dịch chỉ có một là Việt Dịch.
Việt
Dịch tuy là không trưng 64 quẻ cũng không một lời bàn về 64 quẻ nhưng lại có rất
nhiều quẻ, nhiều gấp ngàn lần. Kinh Dịch
dù là Kinh Dịch Phục Hy hay là Kinh Dịch Chu Văn cũng chỉ mới vận dụng đến tầng
thứ 2 [(2x2x2)^2 hay 8x8 = 64 quẻ] của Đồ Dịch.
Còn Việt Dịch vận dụng đến tầng thứ 8 [(2x2x2)^8 trừ đi trùng quái, tức
là 8! = 8x7x6x5x4x3x2x1] của Tiên Thiên Đồ và của cả Hậu Thiên Đồ. Việt Dịch không dùng hào âm hào dương trong một
quẻ để phỏng đoán ý nghĩa của quẻ. Việt
Dịch dùng trọn quái và toàn cục diện của quẻ, tức thứ tự của các quái phân bố trong
một quẻ, để nghiệm lý.
Tiên Thiên Đồ
và Hậu Thiên Đồ ẩn trong Việt Dịch Đồ chỉ là một vế của sự khám phá và phục dựng.
Một vế khác không kém quan trọng là Ngũ
Hành Đồ và Hà Đồ. Ngũ Hành Đồ và Hà Đồ
được phục dựng chính yếu là từ vế thứ hai của 67 lời khẩu quyết. Hai đồ hình này cung cấp thông tin ngũ hành
và độ số của Việt Dịch Đồ. Ở bài viết
này chúng ta sẽ không chú ý tới Hà Đồ mà đặc biệt chú ý tới Lý Thuyết Ngũ Hành
Nguyên Thủy rút ra từ Ngũ Hành Đồ của Việt Dịch.
Lý thuyết ngũ
hành mà mọi người đều biết HHQ gọi nó là Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập. Lý thuyết phổ cập này là sản phẩm của văn hóa
Trung Hoa. Toàn bộ lý thuyết được xây dựng
trên nền tảng của 5 loại vật chất và 2 qui luật vận hành. Năm loại vật chất là
Kim. Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Hai qui luật vận
hành là qui luật Tương Sinh và qui luật Tương Khắc. Tương Sinh là Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa
sinh Thổ, Thổ sinh Kim và Kim sinh Thủy.
Chữ tương sinh ở đây đã bị lạm dụng, vì chỉ có một chiều sinh nên không
thể nói là tương sinh. Tương Khắc là Thủy
khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy. Cũng vậy, chữ tương khắc ở đây đã bị lạm dụng,
vì chỉ có một chiều khắc nên không thể nói là tương khắc. Toàn bộ Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập được tóm gọn
trong hình phía bên trái của H30.
Lý Thuyết Ngũ
Hành Nguyên Thủy hiện nay có rất ít người biết đến. Như đã nói, nó được phục dựng từ vế thứ hai của
67 lời bí nhiệm. Và nó là của Việt. Khác với lý thuyết của người Hoa, tuy Ngũ Hành
cũng là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ nhưng Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy được xây
dựng trên nền tảng của thiên văn và tuy cũng có hai qui luật vận hành Tương
Sinh và Tương Khắc nhưng sự vận hành hoàn toàn khác. Hai hành trong số 4 hành Kim, Thủy, Mộc, Hỏa nằm
cạnh nhau sẽ Tương Sinh cho nhau theo hai chiều thuận và nghịch kim đồng hồ, đó
mới thực sự đúng nghĩa “tương sinh.” Hai hành trong số 4 hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa
nằm đối diện nhau sẽ Tương Khắc nhau theo hai chiều qua lại, đó mới thực sự đúng
nghĩa “tương khắc.” Còn hành Thổ quan trọng
hơn cả nằm ở trung cung của Ngũ Hành Đồ.
Nó trung dung, trung hòa và trung lập.
Nó điều hợp, điều giải và điều tiết 4 hành Kim, Thủy, Mộc, Hỏa. Về tính chất tương tác thì Thổ đại diện cho Trung
Đạo. Về cấu trúc thì Thổ là Trung Tâm. Toàn bộ Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy được
tóm gọn trong hình phía bên phải của H30.
Việt Dịch
không giống với bất cứ một sản phẩm Kinh Dịch nào ra đời từ trước tới nay. Nó thành lập một cái nhìn mới về Dịch và một
tiêu chuẩn mới cho lý số. Tuy là hiện tại
chưa có nhiều người biết nhưng về lâu về dài tự thân Việt Dịch sẽ chứng minh điều
này. Nhưng cái mới này thật ra là không
mới bởi vì như đã nói là nó được phục dựng từ di sản của tiền nhân Việt để lại. Nói cách khác, chỉ có tính cách “phản động” của
nó là mới. Hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp,
Việt Dịch phủ nhận giá trị lạm phát của Kinh Dịch do người Tàu phỏng tác, phủ nhận
bản quyền Dịch là của Tàu, phủ nhận Tiên Thiên Bát Quái và Hậu Thiên Bát Quái
là của Tàu, phủ nhận Lý Thuyết Âm Dương là của Tàu, phủ nhận Hà Đồ là của Tàu,
phủ nhận giá trị Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập của Tàu, phủ nhận giả thuyết nền
văn hóa Việt là con đẻ của nền văn hóa Tàu, phủ nhận ngay cả Tiên Đạo là của
Tàu bởi vì Đạo Dịch đã có trước khi Lão Tử ra đời rất lâu. Những điều này, theo thời gian, kết hợp với
những khám phá khác hiện nay và sau này sẽ thành lập một cái nhìn tự tin hơn về
cội nguồn dân tộc.
Việt Dịch là một
sản phẩm được phục dựng từ công trình giải mã hai cụm chữ chứa 67 lời khẩu quyết
đã tồn tại từ rất lâu trong văn hóa dân gian được Khổng Tử thu thập và ghi chép
vào Kinh Dịch. Văn hóa đó phát sinh từ
văn minh của phương Nam
(Khổng Tử nói, không phải HHQ nói). Cũng
giống như công trình của NTD và của TQB, công trình của HHQ cho thấy phương
pháp giải mã di sản văn hóa phi vật thể để phục dựng sản phẩm văn hoá phi vật
thể và chính sản phẩm được phục dựng có một giá trị nhất định.
tiếp theo: Giải Mã Di Sản Văn Hóa Phi Vật Thể . . . Bài 4
No comments:
Post a Comment