Friday, January 11, 2013

Giải Mã Di Sản Văn Hóa Phi Vật Thể . . . Bài 8 - Hà Hưng Quốc





GIẢI MÃ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐỂ PHỤC DỰNG SẢN PHẨM VĂN HÓA PHI VẬT THỂ: MỘT CON ĐƯỜNG TÁI HIỆN DIỆN MẠO VÀ CỘI NGUỒN ĐÍCH THỰC CỦA NỀN VĂN HÓA VIỆT. 



Điều mà mỗi người và mọi người có thể làm được là đừng vội phủ nhận những chấm nhỏ đó và cũng đừng vội phủ nhận phương pháp giải mã di sản văn hóa phi vật thể để phục dựng sản phẩm văn hóa phi vật thể trong nỗ lực tái hiện lại bức tranh diện mạo và cội nguồn đích thực của nền văn hóa Việt.  Dưới điều kiện khắc nghiệt của địa dư và lịch sử làm cho những chứng tích vật thể mong manh khó có thể tồn tại, con đường phục dựng sản phẩm văn hóa phi vật thể từ di sản văn hóa phi vật thể có lẽ là con đường không thiếu khôn ngoan.  Mỗi công trình có thể chỉ là một con kiến tí ti trong con mắt của những khoa học gia chính thống và dễ dàng bị cho “chìm xuồng” nhưng một khi số lượng kiến đã có thể kết nối nhau thành một bè kiến chuyên chở nổi sự thật về cội nguồn văn hóa Việt thì lúc đó kiến sẽ không còn là kiến. “  



trở lại: Giải Mã Di Sản Văn Hóa Phi Vật Thể . . . Bài 7
 
Bạch Thư Trong Mộ Hán Mã Vương Đôi & Trúc Giản Trong Mộ Sở Kinh Môn Quách Điếm: Bằng Chứng Củng Cố Giá Trị Của Sản Phẩm Được Phục Dựng Và Của Phương Pháp Giải Mã Di Sản Văn Hóa Phi Vật Thể
Trong bài Nghiên Cứu Trong Thế Kĩ XX Về Lịch Sử Tư Tường Của Trung Quốc của ông Trương Hải Yến (张海燕), Sở Nghiên Cứu Lịch Sử thuộc Viện Khoa Học Xã Hội Trung Quốc, đăng trong tạp chí Trung Quốc Sử Nghiên Cứu Động Thái (中国史研究动态) số 1/2002, tr. 5-15, do học giả Nguyễn Tấn Cường dịch chú, đã viết:

 “‘Ngũ hành’ của Nho gia là trỏ ‘nhân, nghĩa, lễ, trí, thánh.’ Tuân Tử - [313TCN – 238TCN, trong thiên] Phi Thập Nhị Tử, cho rằng học trò của Tử Tư [tức Khổng Cấp, cháu nội của Không Tử] và Mạnh Tử [372TCN - 289TCN] ‘theo thời xưa mà tạo thuyết gọi là ngũ hành.Cái ‘ngũ hành’ này ‘Dương Cạnh (杨倞) đời nhà Đường [618CN - 907CN] chú rằng: ‘Ngũ Hành tức Ngũ Thường, là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín’.”

            Vào năm 1973, một ngôi mộ Hán [206TCN - 220CN] tại Mã Vương Đôi được khai quật, người ta tìm thấy trong số bạch thư có quyển Lão Tử giáp bản (bản A) và ở phần sau của quyển sách đó có một thiên giảng về “Nhân, Nghĩa, lễ, Trí, Thánh.”  Đầu thiên bị khuyết mất và các học giả đặt tên cho thiên đó là thiên Ngũ Hành.  

            Rồi năm 1993, người ta lại khai quật một ngôi mộ Sở [1030TCN – 223TCN] tại Kinh Môn Quách Điếm và tìm thấy trong số trúc giản có một thiên giản thư [sách viết trên thẻ] có tên là Ngũ Hành.  Nó có nội dung tương tự như thiên Ngũ Hành trong bạch thư tìm được trong ngôi mộ Hán ở Mã Vương Đôi, tức là nói về “nhân, nghĩa, lễ, trí, thánh.”

            Theo GS Nguyễn Hữu Quang thì “tác giả của bộ sách này [bạch thư Mã Vương Đôi] không ai khác hơn là Thầy Tử Tư, cháu đích tôn của Đức Khổng Phu Tử và Thế Tử là một nhân vật thời Chiến Quốc mà cho đến hôm nay cũng chưa ai biết được danh tính và lai lịch” (Nguồn: Hán Việt Dịch Sử Lược, Chương 3 - Thiên Văn Lịch Toán).

            Từ những thông tin trên chúng ta có thể xác định được một vài điều: (1) Ngũ Thường của Nho Gia thời Chiến Quốc là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Thánh.  Đến đời Đường (và có thể sớm hơn) đã biến ra thành Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.  (2) Ngũ Hành và Ngũ Thường có sự liên quan mật thiết.  Và (3) Ngũ Hành thời Chiến Quốc là mô phỏng theo “thời xưa.”  Nói một cách khác, là thuyết Ngũ Hành đã có trước thời Chiến Quốc rất lâu (vì trước rất lâu nên mới gọi là thời xưa).   

            Ngày hôm nay nếu chúng ta vào Google gỏ “nhân, nghĩa, lễ, trí, thánh” để truy tìm thì chúng ta sẽ được vỏn vẹn 4 kết quả.  Trong khi đó nếu gỏ vào “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” thì chúng ta sẽ nhận được 630 ngàn kết quả.  Điều này cho thấy hình như ít có người quan tâm đến sự khác biệt giữa Ngũ Thường thời Chiến Quốc so với Ngũ Thường từ đời Đường trở về sau này.  Nhưng sự khác biệt này là một phát hiện quan trọng, ít ra là đối với mạch Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy và với nguồn gốc văn hóa Việt.

            Quan trọng như thế nào?  Trước hết chúng ta hãy nhìn vào hình P6 mô tả sự tương quan giữa Ngũ Thường và Ngũ Hành ở hai thời điểm, thời Chiến Quốc và thời Đường.


            Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín là 5 đặc tính “đồng đẳng” làm nên nhân cách của một mẫu người lý tưởng gọi là “quân tử” trong học thuyết của Nho Gia Phổ Cập từ thời Đường trở về sau.  Ngũ Thường Phổ Cập này tương ứng với Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập, trong đó Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là 5 vật chất “đồng đẳng cấp.”  Sự tương ứng này cho thấy trong hình P6, một nửa bên dưới. 



Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Thánh là 5 đặc tính “không đồng đẳng cấp” trong mô hình Ngũ Thường Nguyên Thủy (vào thời Chiến Quốc trở về trước).  Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí là 4 đặc tính của người quân tử đúng với nguyên tác"Quân tử sở tính Nhân nghĩa lễ trí" của Nho Giáo Nguyên Thủy.  Bốn phẩm chất này (nằm ở vòng ngoài) làm nên nhân cách của một con người toàn vẹn để rồi từ sự toàn vẹn đó có thể bước vào vị trí Thánh (nằm ở trung tâm).  Thánh là một đặc tính vượt trên hẳn những đặc tính làm nên nhân cách toàn vẹn của một con người bình thường.  Ngũ Thường Nguyên Thủy tương ứng với Lý Ngũ Hành Nguyên Thủy, trong đó Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là 5 hành “không đồng đẳng cấp.”  Thổ là một hành quan trọng hơn vì nó chi phối và điều hợp bốn hành còn lại và nó nằm vào vị trí trung ương.  Hình P6, một nửa phía trên, cho thấy sự tương ứng giữa Ngũ Thường Nguyên Thủy với Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy. 

Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Thánh của Ngũ Thường Nguyên Thủy còn cho thấy một điều quan trọng khác trong học thuyết Nho Giáo Nguyên Thủy.  Đó là, Đức Khổng Phu Tử muốn dẫn dắt con người “về đến chỗ trọn NGƯỜI, đạt đến chỗ THÁNH” hay nói một cách khác là từ Người tới Thánh, chứ không phải để nặn ra một mẫu người “quân tử “ sặc mùi chính trị “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.”  NGƯỜI và THÁNH trong Nho Giáo Nguyên Thủy hoàn toàn khế hợp với minh triết của Việt Dịch.  Nói về minh triết của Dịch Việt, HHQ đã ghi trong Việt Dịch như sau:

Việt Dịch Đồ dưới lăng kính minh triết: Vòng ngoài là chỗ của nhiều còn tâm trung là nơi của một.  Vòng ngoài là trú xứ của sinh sinh hoá hóa còn tâm trung là trú xứ của diệu diệu huyền huyền.  Từ tâm đi ra ngoài là hướng ngoại, từ ngoài trở về tâm là hướng nội.  Từ tâm đi ra ngoài là con đường của nhơn dục còn từ ngoài trở về tâm là con đường của thiên lý. Hướng ngoại để có nhiều, hướng nội để giữ một.  Theo nhiều là lý do của điên đảo, quay cuồng.  Giữ một là cái gốc của thường tịnh lặng lẽ.  Tâm trung là đền Thánh của đức Thổ, nhơn sanh tiến vào đền Thánh lễ bái không ngoài một chữ Tín.  Vòng ngoài là nhà lửa của tam giới, lìa bỏ đền thánh để chui vào nhà lửa vui đùa không ngoài một chữ dục của vọng ý. 

Việt Dịch Đồ dưới lăng kính minh triết: Tâm trung là chỗ để giữ đạo tam tòng: tòng thiên, tòng địa và tòng nhân.  Vòng ngoài là chỗ để giới trì tứ đức: đức Nhân của Mộc, đức Nghĩa của Kim, đức Trí của Thủy, đức Lễ của Hỏa.  Thế nào là giữ đạo tam tòng?  Trời vốn ‘dĩ dị tri’ đất vốn ‘dĩ giản năng.’  Mà giản dị thì ‘dị tắc dị tri, giản tắc dị tòng’[1] dễ biết dễ theo.  Một khi đã dễ biết dễ theo thì có lắm người biết nhiều người theo do đó mà thành tựu công nghiệp lớn ‘dị tri tắc hữu thân, dị tòng tắc hữu công, hữu thân tắc khả cửu, hữu công tắc khả đại, khả cửu tắc hiền nhân chi đức, khả đại tắc hiền nhân chi nghiệp.’ [2]  Nắm được đạo lý giản dị là nắm được đạo lý trong thiên hạ.  Đã nắm được đạo lý trong thiên hạ thì đứng giữa cùng với trời và đất ‘dị giản nhi thiên hạ chi lí đắc hĩ, thiên hạ chi lý đắc nhi thành vị hồ kì trung hĩ.’ [3]  Đứng chung được với trời đất tức là đã giữ đạo tam tòng.  Thế nào là giới trì tứ đức?  Trời đất không có tư tâm, thánh nhân không có tư tâm, cho nên mới nói trời đất bất nhân coi vạn vật như chó rơm, thánh nhân bất nhân coi bá tánh như chó rơm, ‘thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu, thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu.’ [4]  Trời đất hành sự chẳng vì mình cũng chẳng vì ai.  Thánh nhân hành sự chẳng vì mình cũng chẳng vì ai.  Hành sự chẳng vì mình cũng chẳng vì ai chánh thật là giới trì.  Ở giữa thiên hạ, lấy thiên hạ làm lòng mình, coi hết thảy như trẻ thơ, ‘tại thiên hạ, hấp hấp vị thiên hạ hỗn kỳ tâm, thánh nhân dai hài nhi,’ [5] đó chánh thật là đức Nhân.  Lấy đạo giúp cho người lãnh đạo, không lấy bạo quyền cưỡng bức thiên hạ, ‘dĩ đạo tá nhân chủ dả, bất dĩ binh cường thiên hạ,’ giữ cái vô danh mộc mạc để trí vô dục, tâm yên tịnh, thiên hạ được bình yên ‘dĩ vô danh chi phác, vô danh chi phác phù diệc tương vô dục, bất dục chi tỉnh, thiên hạ tương tự định,’ [6] đó mới chánh thật là đức Nghĩa.  Không can thiệp dân sẽ tự nhiên vô tư, không áp bức dân sẽ tự nhiên ngay thẳng, không bày vẽ dân sẽ tự nhiên giàu có, không tham lam dân sẽ tự nhiên thật thà, ‘ngã vô vi nhi dân tự hóa, ngã hiếu tĩnh nhi dân tự chính, ngã vô sự nghi dân tự phú, ngã vô dục nhi dân tự phác,’[7] cho nên lấy ngay thẳng mà trị quốc, lấy vô sự mà giữ yên thiên hạ, ‘dĩ chính trị quốc . . . dĩ vô sự thủ thiên hạ,’ [8] giúp dân từ bỏ cái quá độ để quay về với tự nhiên, ‘phục chúng nhân chi sở quá, dĩ phụ vạn vật chi tự nhiên,’ [9] lấy thấp làm nền, lấy hèn là gốc ‘dĩ tiện vi bản, dĩ hạ vi cơ’ để ngồi trên mà dân không thấy nặng, ở trước mà dân không thấy ngại, ‘xử thượng nhi dân bất trọng, xử tiền nhi dân bất hại,’ [10] đó mới chánh thật là đức Lễ.  Biết đủ không nhục, biết ngừng không nguy, được cái lâu bền, ‘tri túc bất nhục, tri chỉ bất đải, khả dĩ trường cửu,’ [11] làm trọn vẹn mà dường như dở dang nhưng dùng mãi chẳng hư, có đầy đủ mà dường như trống rỗng nhưng dùng mãi không hết, rất ngay thẳng mà như cong, rất hay mà như dở, rất hùng biện mà như ấp úng, ‘đại thành nhược khuyết kỳ dung bất lệ, đại doanh nhược xung kỳ dụng bất cùng, đại trực nhược khuất, đại xảo nhược chuyết, đại biện nhược nột,’ [12]  không ra cửa mà biết khắp thiên hạ, thấy rõ đạo trời, ‘bất xuất hạ tri thiên hạ, bất khuy dũ kiến thiên đạo’ [13] quay về gốc tịnh, phục mệnh thường hằng, ‘chí hư cực . . . phục mệnh viết hằng’ [14] đó mới chánh thật là đức Trí.  Ở chỗ điên đảo, quay cuồng mà vẫn ung dung tự tại là nhờ trong không xa đạo tam tòng ngoài không lìa giới trì tứ đức.  Giữ đạo tam tòng, giới trì tứ đức là cung cách của hiền thánh.
          
Việt Dịch Đồ dưới lăng kính minh triết: Tâm trung là trái tim nguyên thể và vô nhiễm.  Vòng ngoài là nơi đã làm cho máu của Đức Chúa chảy ra.  Ngài ‘có khả năng chuyển hóa, đem tù hãm tối tăm, đốt tan trong ánh sáng, những nghiêng lệch tạm thời, bỗng chốc về đúng chỗ, trời người đất dung thông, thế giới hoát đại đồng, thiêng liêng và huyền nhiệm’ [15] là vì tâm nội chưa từng lìa nguyên thể và vô nhiễm, thân ngoại chưa từng lìa tôn nghiêm và hiền thiện.  Ở chỗ ác trược tối tăm mà vẫn nguyên thể và vô nhiễm, vẫn tôn nghiêm và hiền thiện là phẩm hạnh của đấng Chúa Thánh Thần.    

Việt Dịch Đồ dưới lăng kính minh triết: Tâm trung là chỗ vô chấp, vô cầu, vô sinh, vô diệt, bất đồng, bất dị.  Vòng ngoài là chỗ không thực tánh thực tướng, của chấp trước, của trùng trùng duyên khởi, của huyễn hóa, của vô minh, của sinh diệt, của biển nghiệp lực.  Tâm trung là thế giới của ‘diệu trạm tổng trì bất động tôn,’ [16] là đại viên cảnh trí, là đương xứ tức chân, là tuyệt thánh khí trí, là bất động hiện quán, là bản lai diện mục, là sanditthiko, là akàliko, là opanayiko.  Vòng ngoài là thế giới ‘như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điển,’ [17] là ‘hoa đốm giữa hư không,‘ [18] là lý trí vọng thức, là chỗ ‘gate, gate, paragate, parasamgate,’ [19]  là khổ đế và tập đế.  Tâm trung là nhà của Như Lai. Vòng ngoài là chỗ hiển bày vạn pháp.  Bồ tát thường tịnh thường lặng ngay giữa chốn điên đảo quay cuồng là vì tâm nội chưa từng lìa nhà Như Lai, thân ngoại chưa từng lìa Pháp Giới; là vì vốn thấy rõ tất cả pháp đều huyễn hóa nên lìa tâm thức phân biệt chẳng thấy bốn tướng ‘nhân, ngã, chúng sanh, thọ giả,’ chẳng thương, chẳng ghét; là vì vốn thấy rõ mọi hiện tượng thế gian đều ‘không thêm, không bớt, không dơ, không sạch’ [20] nên chẳng lìa ‘bình đẳng tánh trí,’ chẳng buông bỏ gì, chẳng nắm giữ gì, chẳng đến, chẳng đi; là vì vốn thấy rõ ‘thế gian như chiêm bao mà khởi lòng đại bi’ [21] nên chẳng lìa thực tại hiện tiền, trong huyễn cảnh hiện huyễn thân dụng huyễn pháp nương huyễn phương tiện cứu độ huyễn chúng sanh, tùy duyên bất biến.  Giữa thế gian mà không bị những cái khổ của thế gian trói buộc chính là quán tự tại.    

Việt Dịch Đồ dưới lăng kính minh triết: Tâm trung là Đạo, vòng ngoài là Danh.  Danh là chỗ của có không.  Không là tên gọi lúc khởi đầu trời đất, là ’vô, danh thiên địa chi thủy.’ [22] Có là tên gọi lúc nảy sinh, là ‘hữu, danh vạn vật chi mẫu.’ [23]  Thánh nhân lấy cái không để chiêm ngưỡng sự kỳ diệu, lấy cái có để xem xét sự tinh vi, ‘cố thường vô dục dĩ quan kỳ diệu, thường hữu dục dĩ quan kỳ hiếu.’ [24] Có không cùng hiện hữu.  Thánh nhân không thiên vị.  Theo đạo tự nhiên nên không cố làm, dạy đạo tự nhiên nên không cố nói, cùng một thể với đạo, ‘xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo.’ [25]  Ở chỗ có không thánh nhân làm khe nước cho người khát, thành việc mà không kể công, thành công mà không ở lại, rỗng tâm, no lòng, mềm chí, cứng xương, khiến dân không dám tham, khiến kẻ trí không dám dùng thủ đoạn, thường hay cứu người nên không bị bỏ rơi, thường hay cứu vật nên không bị vứt đi. Thân tuy ở Danh nhưng tâm thì ở Đạo.  Lòng đạo vốn trống không nên dung chứa vô cùng.         

Việt Dịch Đồ dưới lăng kính minh triết: Tâm trung là đất của tiên thiên, vòng ngoài là chỗ của hậu thiên.  ‘Tiên thiên thì tịch tịnh như nhiên, bất sanh bất diệt. Hậu thiên thì luôn luôn biến dịch và có cơ biến hóa hai chiều: chiều sanh và chiều tử.’ [26]  Tâm trung là chỗ của ‘Thái Cực hiện nơi cung Vô Cực, là hoa khai kiến phật; Thái Cực có hiện nơi cung Vô Cực thì Vô Cực mới thành chí huyền chí diệu,’ mới là ‘huyền chi hựu huyền’ [27]  Vòng ngoài là chỗ ‘dùng chơn Thủy giúp cho Hỏa minh linh,’ là nơi ‘để đức cương kiện hiệp với đức nhu thuận,’ để ‘chân trí linh tri tương hiệp, chân tình chân tánh đồng khí, cương nhu phối nhau quay về Trung Chánh’ chỗ chân Thổ là nơi ‘Mậu Kỷ hiệp nhau biến thành đao khuê’ [28] điểm hợp nội ngoại chi đạo để ‘kiến tố’ để ‘phục mện’ [29] chính chỗ dụng tâm của tiên gia.   

Giữa tâm trung với vòng bên ngoài của Việt Dịch Đồ, lý sự có thể tóm lại trong một chữ Dịch.  Nó hàm chứa sự thông dung và diệu dụng.  Nó hàm chứa sự tự nhiên và vô ngại.  Nó hàm chứa một thế giới nhị nguyên trong trạng thái tương tác hài hòa.  Đó chính là Dịch.  Hiểu và sống trong sự tương tác hài hòa đó chính là nền tảng của minh triết VIỆT.“
  
Nghiệm lại nghĩa lý của cặp đồng đạo tương ứng Ngũ Thường Phổ Cập (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín) và Ngũ Hành Phổ Cập (5 hành vật chất đồng đẳng) rồi so với nghĩa lý cao siêu của cặp đồng đạo tương ứng Ngũ Thường Nguyên Thủy (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Thánh) và Ngũ Hành Nguyên Thủy (5 hành thiên văn bất đồng đẳng), không khó để nhận ra một sự khác biệt rất lớn.
          
            Như đã nói, Ngũ Thường Nguyên Thủy là đồng đạo tương ứng của Ngũ Hành Nguyên Thủy.  Do đó khám phá “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Thánh” trong những di chỉ cổ nhất và đáng tin cậy nhất mà nhân loại có được từ hai vụ khai quật mộ cổ ở Mã Vương Đôi và Kim Môn Quách Điếm chính là có thêm bằng chứng vật thể củng cố cho sự chính xác của mô hình Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy. 

Quan trọng hơn là chính sự chính xác của những sản phẩm được phục dựng từ phương pháp giải mã di sản văn hóa phi vật thể đã cho thấy giá trị của những sản phẩm văn hóa phi vật thể được phục dựng và của chính phương pháp giải mã di sản văn hóa phi vật thể để phục dựng những sản phẩm văn hóa phi vật thể đó. 

 Đồng thời nó tiếp tay làm sáng tỏ một SỰ THẬT mà nhiều học giả “cấp tiến” của Việt Nam đang cố chứng minh bằng nhiều phương pháp khác nhau, trong đó có cả phương pháp giải mã di sản văn hóa phi vật thể để phục dựng sản phẩm văn hóa phi vật thể.  SỰ THẬT đó rất đơn giản: NỀN VĂN MINH VIỆT CỔ ĐÃ ĐẺ RA NỀN VĂN MINH TRUNG HOA.         

            Như Trương Hải Yến đã viết “Tư tưởng triết học của dân tộc Trung Quốc đã có ngay từ thời Lão Tử và Khổng Tử, điều này không có gì để nghi ngờ.”  Mà Khổng Tử thì đã nói với học trò của mình là “[Ta] chỉ thuật lại mà không trước tác, [Ta] tin vào đạo lý của đời xưa - [Ngô] thuật nhi bất tác, [Ngô] tin nhi hiếu cổ ” và cũng đã xác định một sự thật là nguồn gốc của văn minh nằm ở phương Nam, được ghi lại trong sách Trung Dung: “Độ luợng bao dung, khoan hòa giáo hóa,  không báo thù kẻ vô đạo, đó là sức mạnh của phương Nam, người quân tử ở đấy!  Mặc giáp cưỡi ngựa, xông pha giáo mác, đến chết không chán, đó là sức mạnh của phương Bắc. Kẻ cường đạo ở đó.” Tuân Tử cũng xác nhận Ngũ Hành Nguyên Thủy (đồng đạo tương ứng của Ngũ Thường Nguyên Thủy là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Thánh) là mô phỏng theo “thời xưa.”  Vậy thời xưa là thời xưa nào, nếu không phải là thời người Việt cổ còn làm chủ trọn vẹn đất Trung Nguyên?  Văn minh phương Nam là văn minh của ai, nếu không là văn minh của cổ Việt?    
  
tiếp theo: Giải Mã Di Sản văn Hóa Phi Vật Thể - Bài 9

[1] Hán Văn trích từ Hệ Từ Truyện, Chương 1 của Kinh Dịch
[2] Hán Văn trích từ Hệ Từ Truyện, Chương 1 của Kinh Dịch
[3] Hán văn trích từ Hệ Từ Truyện, Chương 1 của Kinh Dịch
[4] Đạo Đức Kinh, Hư Dụng, Lão Tử
[5] Đạo Đức Kinh, Nhiệm Đức, Lão Tử
[6] Đạo Đức Kinh, Vi Chính, Lão Tử
[7] Đạo Đức Kinh, Thuần Phong, Lão Tử
[8] Đạo Đức Kinh, Thuần Phong, Lão Tử
[9] Đạo Đức Kinh, Thuần Phong, Lão Tử
[10] Đạo Dức Kinh, Hậu Kỷ, Lão Tử.
[11] Đạo Đức Kinh, Lập Giới, Lão Tử
[12] Đạo Đức Kinh, Hồng Đức, Lão Tử
[13] Đạo Đức Kinh, Giám Viễn, Lão Tử
[14] Đạo Đức Kinh, Quy Căn, Lão Tử
[15] Thơ của Hà Hưng Quốc
[16] Kinh Thủ Lăng Nghiêm
[17] Kinh Kim Cang
[18] Kinh Hoa Nghiêm
[19] Kinh Bát Nhã Tâm
[20] Kinh Bát Nhã Tâm
[21] Kinh Lăng Già
[22] Đ ạo Đ ức Kinh, Lão Tử
[23] Đ ạo Đ ức Kinh, Lão Tử
[24] Đ ạo Đ ức Kinh, Lão T ử
[25] Đ ạo Đ ức Kinh, Lão T ử
[26] Dịch Lý Khai Nguyên của Đức Đông Phương Lão Tổ, thánh giáo Cao Đài.
[27] Đức Lão Tử
[28] Trích thánh giáo Cao Đài.
[29] Đức Lão Tử






No comments:

Post a Comment