Bí Mật Của Đất Trời
Gói Gọn Trong Hai Vế
Cốt Lõi Của Dịch
Học Nằm Trong 67 Lời
trở về: Việt Dịch - bài 8
Dựa vào thông tin sơ khởi và thông tin bổ sung,
chúng ta cũng có thể xác định được 4 quái nằm trên hai trục như trong hình H22. Càn và Khôn nằm trên trục không gian. Khảm và Ly nằm trên trục năng lượng. Trục không gian và trục năng lượng là hai trục
trong số bốn trục của Tiên Thiên Bát Quái Đồ.
Hay nói một cách khác là hai tượng trong số bốn tượng theo ngôn ngữ Dịch
học hoặc hai nguyên tố trong số bốn nguyên tố theo ngôn ngữ của tác giả.
Cũng với thông tin có được từ cụm chữ bí ẩn cho biết vị trí
của trục Càn-Khôn và chiều vận hành chúng ta có được chìa khóa để mở một cánh cửa
bí mật khác: Bát Quái Hậu Thiên. Một khi
trục không gian Càn-Khôn lìa bỏ chính vị để về nằm cạnh trục năng lượng Khảm-Ly
thì hai trục còn lại, trục vật chất hữu hình Đoài-Cấn và trục vật chất vô hình Chấn-Tốn,
bắt buộc phải về nằm cạnh hau. Sự tái phối
trí các trục để chuyển Tiên Thiên Bát Quái Đồ thành Hậu Thiên Bát Quái Đồ diễn
ra theo tiến trình (1) trục Càn-Khôn rời vị trí [tiên thiên] ban đầu của nó và xoay
thuận 1/8 vòng tròn [xoay 45 độ theo chiều xoay cơ bản, là chiều kim đồng hồ] về
nằm cạnh trục Khảm-Ly [như xác định được trong hai đồ hình 20, 21] chiếm vị trí
của trục Chấn-Tốn, theo đó (2) trục Chấn-Tốn bị đẩy ra khỏi vị trí của nó và xoay
thuận 3/8 vòng tròn [xoay 135 độ theo chiều xoay cơ bản, là chiều kim đồng hồ]
trám vào chỗ trống vị trí do trục Càn-Khôn bỏ lại, như trong hình H23.
Hay nói một cách khác là trục Càn-Khôn và trục
Chấn-Tốn hoán đổi vị trí cho nhau nhưng sự hoán đổi tuân thủ quy luật thuận
hành [thay vì Càn-Khôn qua Chấn-Tốn, Chấn-Tốn qua Càn-Khôn theo chiều một thuận
một nghịch]. Như vậy thì “Càn Khôn thất
chính” đã biến Tiên Thiên Bát Quái thành ra Hậu Thiên Bát Quái. Và Hậu Thiên Bát Quái Đồ sau khi điều chỉnh để
trục Khảm-Ly nằm theo hướng Bắc-Nam thì nó sẽ giống với hình H24.
Chưa hết, cũng từ thông tin chứa đựng trong cụm
chữ bí ẩn đó, chúng ta có thể tìm ta ra sự liên hệ mật thiết giữa Hà Đồ và Hậu Thiên
Bát Quái. Chồng Hậu Thiên Bát Quái lên Hà
Đồ chúng ta sẽ có được cái mà ngôn ngữ dịch học gọi là “Hậu Thiên Bát Quái phối
Hà Đồ” giống như hình H25.
Tuy nói là phối nhưng chữ phối có vẻ không hợp
lý. Phối là đem cái này ráp với cái kia,
là tìm cách cho cái này ăn khớp với cái kia, và cho kết quả là ráp đúng hay ráp
sai. Còn ở đây Hậu Thiên Bát Quái và Hà
Đồ “phải đi chung” với nhau vì là một cặp song sinh, đã tự ăn khớp với nhau vì
là hai phần bất khả ly của một tổng thể được cổ thánh mã hóa vào cụm chữ bí ẩn. Chức năng của cái này chỉ có thể phát huy trọn
vẹn hoặc ý nghĩa của cái này chỉ có thể được hiểu trọn vẹn khi có mặt của cái
kia cùng lúc. Và, chức năng của tổng thể
chỉ có thể phát huy trọn vẹn hoặc ý nghĩa của tổng thể chỉ có thể được hiểu trọn
vẹn khi có mặt của hai cái cùng lúc. Và
với một tổng thể thì vấn đề chỉ có thể là tìm cách cho cái này tách rời ra khỏi
cái kia và chỉ có sự chọn lựa là cho cái này tách rời cái kia hay không mà
thôi. Hay nói một cách khác nó là một tiến
trình hoàn toàn ngược lại với phối. Tuy
nhiên chúng ta cứ tạm gọi là “Hậu Thiên Bát Quái phối Hà Đồ” như trước đi. Sở dĩ chúng ta phải nói đến điều này là vì muốn
nhấn mạnh tính chất quan trọng của cái gọi là “bất khả ly” đối với việc tìm hiểu
cái tổng thể mà chúng ta sẽ nói đến và muốn cho mọi người thấy rằng câu hỏi Hậu
Thiên Bát Quái đi chung với Hà Đồ là đúng hay sai sẽ không còn là một nghi vấn
cần thiết nữa.
Bát Quái thì 4 tượng đã thể hiện qua 4 trục và đã
phân ra thành 8 quái. Hà Đồ chuyển động. Tiên thiên dịch hành theo chiều xoay cơ
bản. Vì thế, hậu thiên độ số xuất hiện như chạy ngược kim đồng hồ. Bốn cặp số Hà Đồ phân bố ra 8 vị trí. Tám số Hà Đồ phối với 8 quái Hậu Thiên. Xem hình H26A. Vòng
cung đỏ để chỉ chiều xoay cơ bản [thuận hành] còn vòng cung xanh để chỉ Quái-Số
phân bố theo tiên thiên dịch hành.
Tiếp theo sau sự kết hợp của số với quái, hậu thiên
dịch hành theo chiều xoay cơ bản. Hậu thiên
độ số xuất hiện như chạy trước tiên thiên độ số theo chiều kim đồng hồ. Tám số Hà Đồ phối với tám hướng của Ngũ Hành Phương
Vị [cũng có nghĩa là Quái-Số của Hà Đồ Bát Quái phối với Thiên Can Ngũ Hành]. Xem hình H26B. Vòng cung đỏ để chỉ chiều xoay cơ bản [thuận
hành] còn những đường
tên đen để chỉ Quái-Số phân bố theo hậu thiên dịch hành.
Khi hai dòng chuyển dịch thể hiện cùng một lúc với
chuyển dịch tiên thiên nằm bên trong và chuyển dịch hậu thiên nằm bên ngoài, tức
là thể hiện sự chuyển động trọn vẹn của Hà Đồ, thì chúng ta sẽ có được một đồ
hình tổng thể trong đó độ số, bát quái, ngũ hành, thiên can, địa chi và những
thông tin khác tạo thành một cấu trúc hợp nhất và trọn vẹn giống như hình H27. Và từ giờ trở đi chúng ta sẽ gọi đồ hình này
là Việt Dịch Đồ.
Như chúng ta nhìn thấy, trên Việt Dịch Đồ có tất
cả 8 cụm thông tin chính yếu. Mỗi cụm thông
tin kết hợp những phần tử của nó lại với nhau và bất khả ly. Khi nói tới một phần tử nào của cụm cũng là nói
tới toàn cụm. Nói một cách khác, hoán vị
của bất cứ phần tử nào ra khỏi cụm của nó hoặc bất cứ cụm nào ra khỏi vị trí của
nó sẽ phá họai cấu trúc của cụm và cấu trúc của Việt Dịch Đồ.
Nhìn vào đồ hình H27 chúng ta thấy gì? Có phải chăng là một đồ hình mô tả thế giới
thiên nhiên với những quy luật vận hành khách quan và những hành trạng bất biến
của thiên nhiên? Có phải chăng nó mô tả
sự tương quan giữa vũ trụ và mặt địa cầu [tiêu biểu là thể hiện qua phương hướng
và hai dòng vận hành xuôi ngược chiều kim đồng hồ]? Có phải chăng nó mô tả sự tương quan giữa con
người với thiên nhiên vạn hữu [tiêu biểu là thể hiện qua hành trạng]?
Tới đây thì chúng ta có thể kết luận là Hà Đồ và
Hậu Thiên Bát Quái không xuất hiện từ lưng thú vật mà xuất hiện từ cụm chữ huyền
bí “Thiên
Nhất sanh Thủy, Địa Lục thành chi, Địa Nhị sanh Hỏa, Thiên Thất thành chi, Thiên
Tam sanh Mộc, Địa Bát thành chi, Địa Tứ sanh Kim, Thiên Cửu thành chi, Thiên Ngũ
sanh Thổ, Địa Thập thành chi.” Và nếu
những câu hỏi trên được trả lời là “đúng như vậy” thì di sản của cổ thánh để lại
quả thật chứa đựng sự minh triết tuyệt vời và sự quán thông thế giới hiện tượng
có một không hai.
Như đã từng nói qua trong phần lý giải về Tiên Thiên Bát
Quái Đồ, 4 nguyên tố tối sơ là năng lượng, không gian, vật chất hữu hình và vật
chất vô hình được mô tả qua hình tượng 4 trục là trục năng lượng, trục không
gian, trục vật chất vô hình và trục vật chất hữu hình. Sự tác động của 2 nguyên lực, động và phản/bất
động, lên 4 nguyên tố làm cho mỗi trục thể hiện thành hai mặt đối lập. Từ chỗ đó, tượng không gian bày ra thành
không gian dương tượng và không gian âm tượng.
Tượng năng lượng bày ra thành năng lượng dương tượng và năng lượng âm tượng. Tượng vật chất hữu hình bày ra thành vật chất
hữu hình dương tượng và vật chất hữu hình âm tượng. Tượng vật chất vô hình bày ra thành vật chất
vô hình dương tượng và vật chất vô hình âm tượng. Theo đó xác định 8 nguyên tính là không gian
dương tính, không gian âm tính, năng lượng dương tính, năng lượng âm tính, vật
chất vô hình dương tính, vật chất vô hình âm tính, vật chất hữu hình dương
tính, và vật chất hữu hình âm tính. Dạng-tính-thể-trạng-hành
của mọi hiện tượng trong phạm trù có thể thấy hiểu và lý giải được được đại diện
bởi 8 nguyên tính tối sơ này. Mỗi tập hợp
của mọi hiện tượng có cùng 8 nguyên tính tối sơ được biểu trưng bằng 8 quái và
được đặt tên là Càn, Khôn, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
Tiên Thiên Bát Quái Đồ lẫn Hậu Thiên Bát Quái Đồ
đều lấy 4 trục nguyên tố chứa 8 nguyên tính đặt chồng lên nhau biểu thị cho sự
thuần tác và hỗn tác của hai nguyên lực lên bốn nguyên tố mà tạo tác thành vũ
trụ vạn vật. Tuy nhiên, trong Hậu Thiên
Bát Quái Đồ thì trục năng lượng Khảm-Ly và trục vật chất vô hình Chấn-Tốn được
phân bố vào bốn phương chánh là Bắc, Nam, Đông, Tây [còn gọi là Tứ Chính] còn
trục không gian Càn-Khôn và trục vật chất hữu hình Đoài-Cấn thì phân bố vào bốn
phương bàng [còn gọi là Tứ Duy] so sánh với Tiên Thiên Bát Quái Đồ thì trục
không gian Càn-Khôn và trục năng lượng Khảm-Ly nằm ở bốn phương chánh còn trục
vật chất vô hình Chấn-Tốn và trục vật chất hữu hình Đoài-Cấn thì nằm ở bốn
phương bàng. Sự khác biệt giữa Tiên
Thiên Bát Quái Đồ và Hậu Thiên Bát Quái Đồ trong cách phân bố bốn trục có lý do
của nó. Với vũ trụ vật lý, được mô tả
qua Tiên Thiên Bát Quái Đồ, thì không gian và năng lượng là hai yếu tố chính
còn vật chất hữu hình và vật chất vô hình là hai yếu tố phụ. Điều này không nằm ngoài suy nghĩ của khoa học:
hiện hữu của vũ trụ chỉ là thể hiện của năng lượng trong không gian. Hay nói một cách khác là năng lượng và không
gian “bày ra” vật chất vô hình và hữu hình.
Với thiên nhiên sinh hoá và thế giới của con người mô tả qua Việt Dịch Đồ,
thì năng lượng và vật chất vô hình là hai yếu tố chánh còn không gian và vật chất
hữu hình chỉ là hai yếu tố phụ. Sự phân
bố năng lượng và vật chất vô hình vào hai trục chính “dường như” là hợp
lý. Nói là “dường như” vì chúng ta chưa
đi sâu vào lý giải và và chưa đưa ra những phối kiểm qua ứng dụng để thấy mức độ
chính xác. Kiến thức của lý học Đông Phương
xác quyết mọi hiện tượng trong phạm trù có thể lý giải và thấy hiểu được đều là
thể hiện của âm dương và ngũ hành. Mà ngũ
hành thì có tiên thiên, có hậu thiên, có danh, có hình, có chất. Danh là tên gọi là qui ước gán
vào. Hình thì có hữu hình và vô
hình. Hữu hình thì có thể thấy
biết còn vô hình thì chỉ có thể nhận biết.
Chất có sắc chất và tánh chất. Sắc
chất có thể thấy cũng có thể không thấy còn tánh chất thì
không thấy mà chỉ có thể nhận biết. Thí
dụ như Ngũ Phương gồm Nhâm Quý, Bính Đinh,
Giáp Ất, Canh Tân, Mậu Kỷ là danh của Ngũ Hành Hữu Danh [chỉ là qui ước, đặt
tên để gọi]. Thí dụ như Ngũ Nguyên gồm
nguyên tinh, nguyên thần, nguyên tình, nguyên tánh, nguyên khí là hình của Ngũ
Hành Vô Hình [tuy vô hình mà hữu chất] và Ngũ Đức gồm nhân, nghĩa, lễ, trí, tín
cũng là hình của Ngũ Hành Vô Hình [nhưng vô hình và cũng vô chất]. Thí dụ như Ngũ Tặc gồm trược tinh, thần thức,
quỷ phách, du hồn, vọng ý là chất của Ngũ Hành Hữu Chất [có đủ hai thứ sắc chất
và tánh chất]. Thí dụ như Ngũ Thức gồm hỉ,
nộ, ái, lạc, dục cũng là chất của Ngũ Hành Hữu Chất [cũng hữu chất nhưng chỉ có
tánh chất]. Hệ từ thượng chương 4 tiết 2
có viết “ngưỡng dĩ quan ư thiên văn, phủ
dĩ sát ư địa lý, thị cố tri u minh tri cố, nguyên thủy phản chung cố tri sinh tử
chi thuyết, tinh khí vi vật, du hồn vi biết, thị cố tri quỷ thần, chi tình trạng.” Tạm dịch là: ngẩng lên xem thiên văn, cúi xuống
xét địa lý, cho nên biết cái cớ của sáng tối, quay về nơi khởi nguồn của vạn vật
theo dõi đến cuối cùng nên biết được lý lẽ của sống chết, tinh khí hợp lại sinh
ra vạn vật, hồn thoát ra tạo nên biến hóa nên biết được tình trạng của quỷ thần. Đoạn văn này cho thấy sự quan trọng của hai yếu
tố hình và chất. Mà hình và chất thì chỉ
là một cách nói khác của hai yếu tố năng lượng và vật chất vô hình. Và trong thế giới hậu thiên thì hai yếu tố
này càng quan trọng hơn nhiều cho nên năng lượng và vật chất vô hình được phân
bố vào hai trục chính không phải là điều không hợp lý.
Ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh đổi Tốn Khôn, Trần Quang Bình đưa ra nhiều phương án (chỉ nghi ngờ) Tác giả lại xoay 1/8 với 3/8. Ai đúng nhỉ? Ôi Việt dịch, tôi biết tin ai bây giờ. Thôi cứ như ngàn xưa mà làm vậy.
ReplyDelete